Bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên là một tác phẩm văn học nổi tiếng và đáng chú ý trong văn chương Việt Nam. Tác phẩm này được viết bằng thể thơ, và nó đã gắn kết những tiêu chí nghệ thuật và triết học đặc trưng của thời đại mà tác giả sống.
Mục lục bài viết
1. Cảm nhận khổ 3, 4 bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên siêu hay:
Đây là phần thứ hai trong bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên, một bài thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới trước năm 1945. Hình ảnh và giọng thơ buồn tê tái, thấm vào lòng người.
Nhiều năm trôi qua. Không còn mùa xuân rực rỡ. Không còn cảnh những ngày sôi động trên đường phố, khi ông đồ “Hoa tay tháo những nét – Như phượng múa rồng bay”. Không còn bóng dáng vang vọng của một thời: “Bao nhiêu người thuê viết – Tẩm tắc ngợi khen tài”. Trái ngược với quá khứ vinh quang là hiện tại cô đơn, trống trải. Câu hỏi nảy ra như một tiếng thở dài buồn bã. Tiếc nuối vì sự thay đổi của thế sự, lạnh lùng của con người. Thời gian trôi qua chầm chậm và buồn thảm hơn:
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?”
Với sự tinh tế và sắc sảo, ông đã truyền tải một cảm xúc mạnh mẽ và sâu sắc qua những chi tiết sắc nét trong tác phẩm của mình. Từng nét vẽ và màu sắc được sắp xếp một cách khéo léo, tạo nên một bức tranh sống động về cuộc sống và con người. Bằng cách sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật của mình, Vũ Đình Liên đã làm nổi bật những đặc điểm đặc trưng của cảnh vật và nhân vật, mang đến cho người xem những trải nghiệm tuyệt vời và độc đáo.
“Giấy đỏ buồn không thắm;
Mực đọng trong nghiên sầu”…
“Giấy đỏ” vì nỗi đau của người đã phai mờ, không còn “buồn không thắm” nữa. Mực Tàu đen đã trở thành “nghiên sầu” đáng thương, khô cạn, đọng lại với nỗi đau buồn. Giấy đỏ, nghiên mực biểu hiện nỗi buồn cô đơn của những người tài hoa trong thời đại khốn khó, khi Hán tự đã chấm dứt!
Mùa hoa đào đã trôi qua… Trong không gian lạnh lẽo, chỉ còn hình bóng một ông đồ già đáng thương:
“Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay”.
Ba chữ “vẫn ngồi đây” miêu tả một hình nhân tĩnh lặng, vô tâm và vô hồn. Bị lãng quên trong lòng người và cuộc sống, còn ai quan tâm nữa: “Qua đường không ai thấy”! Vần thơ mang trong nó một cảm giác buồn đắng, chua xót!
Bài thơ “Chợ Đồng” của Tam nguyên Yên Đổ đã ghi lại cảnh chợ Tết đau lòng trong làng quê những năm đầu thế kỉ trước. Người đi chợ trở về mệt mỏi, lạc lõng trong một không gian “Dừng mưa bụi thì còn giá lạnh”, chỉ cảm nhận một nỗi buồn đau khắc sâu.
“Hàng quán người về nghe xáo xác,
Nợ nần năm hết hỏi lung tung”.
Trong bài thơ “ông đồ” có đoạn mô tả về một người khổ hạnh, thảm thiết và đáng thương:
“Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài trời mưa bụi bay…”
Giấy đỏ phủ lá vàng, buồn thảm không tả được. Màu vàng tàn tạ của lá rụng, mưa bụi cuối đông, như làm xót xa, tê tái lòng người. “Lá vàng”, “mưa bụi bay” là hai hình ảnh tượng trưng cho sự lụi tàn đầy thương cảm. Hình bóng ông đồ già bất động dần mờ nhạt trên nền lá rụng và trong ánh trắng đục của mưa bụi buổi đông tàn.
Thơ luôn để lại cái gì đó trong lòng người. Cái cảm thương xa xót là tình chất nhân văn của đoạn thơ này đã lưu lại trong ta. Hình ảnh thơ mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc và gợi cảm. Thương ông đồ già, thương những người tài hoa, ta càng tiếc nhớ văn hóa Nho học truyền thống đã lụi tàn. Nghiên cứu sầu của ông đồ già vẫn ám ảnh mãi không thôi.
Ông đồ già “Những người muôn năm cũ – Hồn ở đâu bây giờ?”
2. Cảm nhận khổ 3, 4 bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên chọn lọc:
Bức tranh thứ hai (III, IV, V) mô tả cảnh sắc một cách tưởng tượng và sâu sắc. Màu đỏ phai mờ, như giọt lệ, thay thế cho giấy đỏ là lá vàng rơi. Với sự sương mờ bao phủ, tạo cảm giác bâng khuâng và mờ mịt, như câu thơ Ngoài giời mưa bụi bay và một câu hỏi xót thương đọng vào không gian và thời gian vô tận, vẫn còn vang vọng trong lòng người. Nhịp thơ cuối cùng này có sự ngập ngừng và tái tê. Nó luôn dừng lại và điệp trùng, day dứt, những câu thơ quẩn quanh, ngơ ngẩn.
Điểm thứ nhất, sự điệp trùng ở cấu trúc của các đoạn thơ. Mỗi đoạn thơ gồm bốn câu, hai câu đầu nói về ông đồ (gián tiếp hoặc trực tiếp), và hai câu sau nói về tình cảm của nhà thơ (hoặc cái nhìn của ông đồ). Nếu ghép lại thành hai bài thơ riêng, ta có bài 1 gồm các câu thơ 9, 10 – 13, 14 – 17, 18 và bài 2 gồm các câu thơ 11, 12 – 15, 16 – 19, 20. Điều này tạo ra một hình ảnh toàn vẹn về ông đồ, từ dần mờ đến biến mất (Nhưng mỗi năm mỗi vắng – Người thuê viết nay đâu? / Ông đồ vẫn ngồi đấy – Qua đường không ai hay,/ Năm nay đào lại nở – Không thấy ông đồ xưa), và một bài thơ về sự thay đổi trong tình cảm của nhà thơ (Giấy đỏ buồn không thắm – Mực đọng trong nghiên sầu, / Lá vàng rơi trẽn giấy, Ngoài giời mưa bụi bay,/ Những người muôn năm cũ – Hồn ở đâu bây giờ?). Bóng dáng của ông đồ dần chìm và tình cảm của nhà thơ ngày càng tăng về nỗi cô đơn. Đây là sự xung đột giữa nhịp mạnh và nhịp nhẹ, tạo nên sự sống động của bài thơ.
Điểm thứ hai, sự trùng điệp của nhịp thơ (2+3) trong sáu câu tả tình:
Giấy đỏ / buồn không thắm
Lá vàng/ rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay v.v…
Những trùng điệp trong bài thơ của Vũ Đình Liên không chỉ diễn đạt sự luyến tiếc và buồn thương mênh mông, mà còn đưa chúng ta vào không gian mờ mịt, nơi nỗi buồn tan vào những cảm xúc không thể nắm bắt (như mưa bụi ngoài trời) và thời gian sao lạc (như hồn ở đâu). Bài thơ chìm vào thời gian thăm thẳm của muôn năm cũ, như một kiếp người mãi mãi không thể quên.
Đặc biệt, trùng điệp đối xứng trong bài thơ đem lại cảm giác tha thiết và mãnh liệt. Bằng những cặp sóng đôi, những câu thơ tạo nên một điệu nhạc ngân vang, như một khúc ngâm, một bản bi ca cổ điển. Những trùng điệp này như giấy đỏ buồn không thắm, mực đọng trong nghiên sầu, hay lá vàng rơi trên giấy, ngoài trời mưa bụi bay. Tất cả những trùng điệp này tạo nên ông đồ chất thơ tuyệt đối, mang tính nhạc thuần túy, và thơ chính là trùng điệp đó.
Nhiều nhà phê bình đã nhắc đến “chủ đề hoài cổ” trong thơ của Vũ Đình Liên, tuy nhiên, đó có thể chưa đủ để nắm bắt hết bản chất của ông đồ. Ông đồ không chỉ là một chủ đề hoài cổ, mà còn là một triết lí về thời gian, về sự thay đổi và trăn trở trong cuộc sống.
Thời gian khách quan được thể hiện qua hình ảnh hoa đào. Mỗi năm, hoa đào lại nở và năm nay, đào lại nở. Hoa đào là biểu tượng của sự biến đổi thời gian, sự vần vũ của cuộc sống. Nó đi qua rồi trở lại, mãi mãi, vô tình, vui tươi và nghiệt ngã.
Còn thời gian của con người, thời gian của văn hóa được thể hiện qua ông đồ. Ông đồ bày mực trên tàu giấy đỏ và không thấy ông đồ xưa. Ông đồ đã đến và ông đồ biến mất mãi mãi, giờ chỉ còn lại trong nỗi nhớ buồn man mác. Ông đồ trở thành một ký ức, một hình bóng mờ nhạt trong tâm trí chúng ta.
Hai thời gian này va chạm và gây ra những bi kịch. Ông đồ chính là một bi kịch, một truyền thống đã mất đi, để lại những hồi ức và tiếc nuối sâu sắc. Ông đồ mang trong mình câu chuyện về sự chốn thiên ha và sự thăng trầm của cuộc sống, đồng thời cũng thể hiện tình yêu và tâm hồn của một dân tộc.
Bài thơ của Vũ Đình Liên không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật, mà còn là một tấm gương sáng, một món quà tinh thần để thấu hiểu và trân trọng giá trị của thời gian và cuộc sống.
3. Cảm nhận khổ 3, 4 bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên ngắn gọn:
Vũ Đình Liên là một người rất đa tài, ông viết văn, làm thơ, nghiên cứu văn học và dạy học. Ông cũng là một nhà thơ tích cực của phong trào thơ mới, nhưng nổi tiếng nhất với bài thơ “Ông đồ”. Bài thơ này nói về sự thay đổi trong xã hội và cách nhìn nhận đối với nhà Nho. Những ông đồ trở nên bị lãng quên và xa lánh khỏi xã hội. Bài thơ cũng thể hiện sự đồng cảm và tiếc nuối của nhà thơ với quá khứ.
Bối cảnh đầu bài thơ miêu tả sự náo nhiệt và háo hức của những người đến xin chữ. Đây là một nét đẹp văn hóa cổ xưa, nhưng khi xã hội thay đổi, việc xin chữ không còn quan trọng như trước. Nhà thơ đã vẽ ra bức tranh thời gian từ quá khứ huy hoàng đến hiện tại đau lòng.
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu”
Trái với quá khứ, khi nền Nho học được trọng dụng, chữ Nho là niềm đam mê của nhiều người. Nhưng thực tế hiện tại khác biệt, thậm chí phũ phàng. Nhà thơ Vũ Đình Liên thể hiện nỗi lòng xót xa: “Nhưng mỗi năm mỗi vắng”. Theo thời gian, số người xin chữ cũng dần vắng, không khí tấp nập của xưa không còn, lời ngợi khen cũng đã mất. “Người thuê viết nay đâu” là một câu hỏi tu từ, thể hiện sự hồi tưởng quá khứ, tâm trạng xót xa khi chứng kiến cảnh tượng đau lòng này.
“Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiêng sầu”
“Giấy đỏ” là giấy mà người ta dùng để viết chữ Nho. Nhưng hiện nay, màu đỏ của giấy cũng trở nên nhạt “giấy đỏ buồn”. “Mực” là chất liệu để viết chữ, thường được đặt trong bút mực. Tuy nhiên, việc đặt mực vào bút ngày nay cũng không được chấm viết mà chỉ đọng lại thành dòng “mực đọng trong nghiêng sầu”. Nhà thơ Vũ Đình Liên đã sử dụng những hình ảnh biểu tượng. Giấy và mực là những vật vô tri vô giác, nhưng trước những hoàn cảnh thực tế, chúng cũng biết “buồn” và “sầu”. Qua hình ảnh giấy, mực, nhà thơ cũng thể hiện sự xót xa của mình đối với sự “thất sủng” của nền Nho học và sự đồng cảm với những người Đồ.
“Ông Đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay”
Vẫn công việc, vẫn vị trí nhưng hoàn cảnh hiện tại của những ông đồ đáng thương đến mức xót xa. “Ông đồ vẫn ngồi đấy” thể hiện sự không đổi thay của con người. Tuy nhiên, lòng người đã đổi khác, dòng người qua lại vẫn tấp nập như vậy nhưng hình ảnh của ông đồ giờ đây đã trở nên nhạt nhòa. Dù vẫn “ngồi đó”, nhưng “không ai hay”, sự đơn độc, lạc long của ông đồ được tái hiện chân thực. Sự vô tình của con người khiến hình ảnh ấy càng trở nên đáng thương, cô độc đến cùng cực. Nên ông đồ dù vẫn hiện hữu nơi góc phố năm nào, giấy đỏ, mực tàu vẫn sẵn sàng song đối với người đi đường cùng tâm lí đổi thay của thời thế khiến tất cả trở nên vô hình.
“Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay”
Dòng người sầm uất đối lập với cảnh vắng lặng của ông đồ cho chữ. Sự vắng vẻ và hiu quạnh của ông đồ cho chữ đã đạt đến cực điểm. Sự đau xót của con người và thiên nhiên hòa quyện thành một. “Lá vàng rơi trên giấy” có thể là hình ảnh thực tế hoặc biểu tượng. Không gian vắng lặng khiến chiếc lá vàng rơi trên giấy mà không ai chú ý. Tuy nhiên, “lá vàng” cũng là biểu tượng của mùa thu tàn úa và sự chia ly. Điều này cho thấy thiên nhiên đồng cảm với hoàn cảnh của nho học. “Ngoài trời mưa bụi bay” cũng có thể hiểu là nước mắt xót thương của thiên nhiên với thực tại.
Vậy, bài thơ “Ông đồ” của nhà thơ Vũ Đình Liên là một bài thơ đơn giản nhưng sâu sắc, tinh tế và gợi cảm. Bài thơ sâu sắc thể hiện tình cảnh đáng thương của ông đồ, đồng thời thể hiện sự xót xa và nhớ về quá khứ vinh quang của nền Nho học xưa. Đáng tiếc cho những người từng được tôn trọng nhưng giờ đây trở nên bị bỏ rơi và lạc lõng đáng thương.
4. Về tác giả Vũ Đình Liên:
Vũ Đình Liên (1913 – 1996)
Quê gốc của ông nằm ở Hải Dương, nhưng ông sống chủ yếu ở Hà Nội, một thành phố phồn hoa và sôi động.
Ông là một trong những nhà thơ đầu tiên của phong trào thơ mới, một phong trào mang đến sự tươi mới và sáng tạo trong văn học.
Ngoài việc sáng tác thơ, ông còn đam mê nghiên cứu, dịch thuật và chia sẻ kiến thức văn học với người khác.
Phong cách sáng tác của ông rất đặc trưng, mang trong mình những nỗi niềm xưa, những kỷ niệm hoài cổ và những hy vọng trong tương lai.
Các tác phẩm của ông được coi là biểu tượng cho sự sáng tạo và tài năng của mình, như Lũy tre xanh, Mùa xuân cộng sản và Hạnh phúc…
5. Giá trị tác phẩm Ông Đồ:
Giá trị nội dung
Tác phẩm này có giá trị nội dung đáng kể. Qua những hình cảnh đáng thương, nó khắc họa một cách thành công cuộc sống của ông đồ thời vắng bóng. Đồng thời, tác phẩm cũng gửi gắm một niềm thương cảm chân thành từ nhà thơ đối với những người dần đi vào quá khứ. Điều này đã khơi gợi được sự xúc động và sự tự vấn của rất nhiều độc giả.
Giá trị nghệ thuật
Bài thơ này không chỉ có giá trị nội dung, mà còn có giá trị nghệ thuật đáng kinh ngạc. Việc viết bài thơ theo thể thơ ngũ ngôn đã tạo nên sự đa dạng và phong phú cho tác phẩm. Bài thơ được chia thành nhiều khổ và có một kết cấu đối lập đầu cuối tương ứng, chặt chẽ. Điều này tạo ra một sự cân đối và hài hòa cho bài thơ.
Ngôn từ trong bài thơ được sử dụng một cách tinh tế. Được viết trong sáng và bình dị, ngôn từ trong bài thơ vẫn truyền đạt được cảm xúc một cách hiệu quả. Nó tạo ra sự gần gũi và chân thành, và giúp độc giả dễ dàng tiếp cận và hiểu rõ thông điệp của tác phẩm.