Nếu khổ thơ thứ 3, 4 là nỗi băn khoăn của nhân vật về nguồn gốc của tình yêu thì ở khổ thơ thứ 5 lại diễn tả nỗi nhớ dạt dào đến mức không ngủ được. Bài viết dưới đây xin được giới thiệu bài văn mẫu phân tích và cảm nhận 3 khổ thơ thứ 3, 4, 5 bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích khổ 3, 4, 5 bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh:
Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm:
- Xuân Quỳnh là gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ trẻ chống Mỹ với tâm hồn hồn nhiên rất trẻ trung, tươi tắn và nữ tính.
- Có thể nói, cùng với “Thuyền và biển”, “Thơ tình cuối thu”, bài thơ “Sóng” đã kết tinh tất cả những gì là sở trường nhất của hồn thơ Xuân Quỳnh.
- Nội dung ở khổ thơ 3 và 4, 5: Hình ảnh sóng tượng trưng cho nỗi nhớ nhung, khao khát của người thiếu nữ muốn được yêu, được sống trong tình yêu thủy chung, hạnh phúc
Thân bài:
* Mô tả các đối tượng “sóng”
- Hình ảnh trung tâm, nổi bật trong bài thơ là hình ảnh “sóng”, bao trùm cả bài thơ là hình ảnh sóng.
- Sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ trẻ cũng như mọi sáng tạo nghệ thuật trong bài thơ đều gắn liền với hình tượng sóng. Cả bài thơ là những đợt sóng dâng trào cảm xúc của người phụ nữ khi đứng trước biển.
- “Sóng” là một trong những hình ảnh ẩn dụ, nó là hiện thân của cái tôi trữ tình Xuân Quỳnh. “Sóng” và “em”, vừa hòa làm một, vừa phân đôi để phản xạ, cộng hưởng. Tâm hồn người phụ nữ đang yêu nhìn sóng để biết lòng mình, nhờ sóng để nói lên trạng thái của lòng mình.
- Với hình tượng sóng, có thể nói Xuân Quỳnh đã tìm được cách diễn tả tâm trạng của người phụ nữ đang yêu một cách chân thực.
- Hình ảnh sóng đã được gợi lên trong toàn bài thơ qua giọng điệu: Đoạn thơ giàu âm hưởng nhịp nhàng, có lúc dâng trào, có lúc rì rào thăm thẳm, gợi âm hưởng của tiếng sóng miên man, bất tận. thưởng thức. Âm hưởng ấy được tạo nên bởi thể thơ năm chữ, các câu liền mạch, không ngắt quãng, các khổ thơ liên kết với nhau bằng vần (“Khi ta đã yêu”… “Sóng trong lòng sâu”).
- Nhịp sóng ấy cũng chính là nhịp tim của tác giả, một tâm trạng xao xuyến, thiết tha, bất tận và tràn ngập những khao khát, rạo rực.
* Câu thơ là một cuộc thám hiểm của sóng, mỗi khổ thơ lặp lại một ý nghĩa khác nhau:
“Ôi sóng… ngực trẻ”
Ở khổ thơ thứ ba, sóng lại xuất hiện với một ý nghĩa khác: Cội nguồn của sóng cũng là cội nguồn bí ẩn của tình yêu. Đứng trước biển, người phụ nữ muốn lý giải nguồn gốc của sóng để đi tìm câu trả lời cho câu hỏi về nguồn gốc của tình yêu trong lòng mình.
“Sóng bắt đầu…ta yêu nhau”
Mọi nỗ lực cắt nghĩa tình yêu của Xuân Quỳnh đều bất lực. Nhà thơ đã “thú nhận” một cách thật thà, hồn nhiên nhưng không kém phần trầm tư, sâu sắc: “Không biết nữa – Bao giờ ta mới yêu nhau”.
Khổ 5: Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ. Tâm hồn đang yêu ở đây luôn soi bóng trên sóng để nói lên sự sâu thẳm, mênh mông của nỗi nhớ trong lòng nàng, nó chiếm trọn cả chiều sâu, nó chiếm cả thời gian, cả ngày lẫn đêm
Con sóng dưới lòng sâu
…
Ngày đêm không ngủ được
Nỗi nhớ không chỉ vận dụng trong lĩnh vực ý thức mà còn ở trong ký ức, tiềm thức.
Kết luận:
- Khái quát nội dung của 3 khổ thơ.
- Cảm nghĩ của em: Tình yêu luôn quan trọng đối với cuộc đời mỗi người, mỗi chúng ta đều có quyền yêu và được yêu. Và tình yêu của tuổi trẻ là tình yêu trong sáng và cảm động nhất.
2. Phân tích khổ 3, 4, 5 bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh hay nhất:
Đã nhiều lần nghe thơ Xuân Quỳnh, ta vẫn nhận ra trong đó những khoảng trống mong manh, sợ hãi và vẻ đẹp của một hồn thơ nhạy cảm. Và đó chính là nét nữ tính làm nên bản sắc của Xuân Quỳnh, mà ở Sóng, tác giả đã thể hiện giai điệu hồn hậu đó ở ba khổ thơ 3, 4 và 5:
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Người phụ nữ khát khao yêu thương và trân trọng tình yêu nên luôn muốn khám phá những bí mật của tình yêu:
“Trước muôn trùng sóng biển
Em nghĩ về anh em
Em nghĩ về biển lớn
Từ khi nào sóng lên?”
Những trăn trở, nghĩ suy trong tâm trí nữ thi sĩ được gợi ra qua hàng loạt câu thơ bắt đầu với cấu trúc “em nghĩ” đầy suy tư. Bà trăn trở được giải đáp những âu lo về tình yêu. “Em” đến đây đã không còn ẩn mình trong sóng nữa mà hiện lên giữa mênh mông đất trời. Đối diện với không gian bao la, vô tận, nhà thơ bỗng nhớ đến cái mênh mang, vô hạn của tình yêu. Nhưng tình yêu đâu chỉ mênh mang, vô tận, trong lòng đại dương của nó còn chứa đựng bao bão tố, phong ba, bao bí ẩn khiến lòng người trăn trở, băn khoăn, khát khao kiếm tìm đáp án. Có lẽ chỉ khi yêu con người ta mới khát khao được khám phá, được thấu hiểu tận cùng cội nguồn của tình yêu:
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau?”
Đáp án của câu hỏi: “Từ nơi nào sóng lên?” thật đơn giản, chóng vánh: “Sóng bắt đầu từ gió”. Nhưng đáp án của câu hỏi “Gió bắt đầu từ đâu?” lại khiến người ta ngập ngừng, không chắc chắn “không biết nữa”. Những câu hỏi tu từ khi ẩn dưới chân sóng, khi lại trào dâng lên đầu ngọn sóng diễn tả tâm trạng nhà thơ. Nương theo con sóng đại dương, bà bắt đầu hành trình tìm kiếm nơi khởi nguồn của tình yêu, đồng thời lý giải bản chất của nó.
Cuối cùng đáp án nhận được là: “Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”. Nó vừa giống như câu trả lời đầy nũng nịu, lại như lời thú nhận về kết quả khám phá cội nguồn tình yêu.
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Con sóng dù ở bất cứ nơi nào, dù ở ngoài khơi xa hay ở trên mặt nước thì vẫn luôn mang tâm trạng nhớ nhung da diết, khắc khoải bến bờ của nó, hướng về bờ ngày ngày đêm đêm cho đến khi gặp được bến bờ. Người con gái cũng vậy, họ luôn một lòng một dạ hướng về người mình yêu thương dù ở bất cứ nơi nào, bất kể ngày hay đêm. Nỗi nhớ ấy theo họ cả vào trong mộng, sống trong giấc mơ của họ. Đó không chỉ là tấm lòng thủy chung sâu sắc của người con gái mà còn là khao khát tình yêu, được thể hiện yêu thương với người yêu của mình.
Tình yêu vốn là tình cảm ẩn sâu trong trái tim con người, nó trừu tượng, huyền diệu chỉ có thể cảm nhận chứ không thể giải thích rõ nguồn cội, cũng chẳng thể cắt nghĩa rõ ràng. Giống như ông hoàng thơ tình Xuân Diệu từng nói:
“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có khó gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu”
Có thể nói, chỉ 3 khổ thơ ngắn gọn nhưng Xuân Quỳnh đã khéo léo sử dụng những biện pháp nghệ thuật cùng hình ảnh gợi cảm đặc sắc, đặc biệt là nghệ thuật điệp từ, điệp cấu trúc cùng những câu hỏi tu từ dồn dập. Thể thơ năm chữ với cách ngắt nhịp phóng túng tạo âm hưởng dào dạt. Nhịp thơ khi nhẹ nhàng, khi da diết. Để rồi qua việc tạo dựng hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã thể hiện được những chiêm nghiệm, suy ngẫm về cội nguồn của tình yêu cũng như khát vọng tình yêu thủy chung, tốt đẹp. Đồng thời khắc họa vẻ đẹp dịu dàng, tinh tế, nét truyền thống pha lẫn vẻ hiện đại của trái tim người phụ nữ với tình yêu chân thành, tha thiết.
Ra đời trong hoàn cảnh khói bom những năm 1967, “Sóng” đã vượt thoát ra khỏi dòng thơ cách mạng vốn rất phổ biến lúc bấy giờ để mang đến cho người đọc cảm xúc thơ mới mẻ. Nó xứng đáng trở thành một trong những bài thơ tình hay nhất của thế kỉ XX.
3. Cảm nhận bài thơ Sóng khổ 3, 4, 5 chọn lọc hay nhất:
Đề tài tình yêu là một đề tài đã khiến cho rất nhiều thế hệ nhà văn, nhà thơ tốn nhiều giấy mực. Viết về tình yêu, thì điều đặc biệt là viết về nỗi nhớ, sự thủy chung trong tình yêu, nhưng có lẽ một nhà thơ nữ viết về tình yêu của chính những người phụ nữ thì ít thấy. Nhưng Xuân Quỳnh đã làm được điều đó qua bài thơ Sóng – một bài thơ tình hay nhất trong sự nghiệp của bà.
Bài thơ là kết quả của chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền – Thái Bình cuối năm 1967, được đưa vào tập thơ “Hoa dọc chiến hào” (1968). Con người Việt Nam thời kì kháng chiến lại viết về tình yêu, tình cảm riêng tư và vĩnh hằng nhất của nhân loại. Vì thế, bài thơ được coi là “bông hoa lạ” nở “dọc chiến hào” những năm kháng chiến chống Mỹ. Sau hai khổ thơ đầu về những quy luật của tình yêu, “em” vẫn chưa thỏa mình mà muốn truy tìm căn nguyên, nguồn gốc của tình yêu.
Trước không gian mênh mông biển lớn, người già hay nghĩ về sự hư vô, nhỏ bé của kiếp người; kẻ tráng trí hùng tâm lại một lòng: “Muốn vượt bể Đông theo cánh gió/ Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi” (Phan Bội Châu); kẻ đa cảm lại thấy: “Vắng cánh buồm một chút cũng cô đơn” (Hữu Thỉnh). Còn Xuân Quỳnh, đứng trước biển lại là những suy nghĩ, cảm nhận chân thực và cụ thể nhất:
“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?”
Trước sự mãnh liệt và kì diệu của tình yêu, con người luôn có nhu cầu khám phá những bí ẩn vốn luôn tồn tại trong nó, luôn muốn cắt nghĩa được cội nguồn của tình yêu. Song đó lại là một trạng thái tâm lý dễ giả thích bằng những lý lẽ thông thường, khó ai có thể trả lời một cách chính xác về nguyên nhân, khởi nguồn của tình yêu, cũng như khi Xuân Diệu băn khoăn: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu?”. Câu hỏi: “Từ nơi nào sóng lên” nhẹ lơi như hơi thở, tưởng bâng quơ mà hóa ra bận bịu lòng người. Vẫn là ước muốn truy tìm đến tận cùng bản thể: “Con người từ đâu đến? Nó sẽ đi về đâu? Tinh yêu từ nơi nào mà lớn lên vậy?”
Khổ thơ tiếp theo lại là câu hỏi dồn dập như những con sóng nối tiếp đến vô cùng, miên man không dứt, đưa con người tới những suy ngẫm vô tận:
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
Trả lời cho câu hỏi: “Từ nơi nào sóng lên?”, lời đáp thật dễ dàng, chóng vánh: “Sóng bắt đầu từ gió”. Câu hỏi thứ hai ráo riết hơn, lý trí muốn đẩy những băn khoăn đến tột cùng: “Gió bắt đầu từ đâu?”. Những câu hỏi tu từ lúc ẩn duối chân sóng, lúc lại trào lên đầu ngọn sóng như những trăn trở. Nhân vật trữ tình không cảm nhận về sóng mà nghĩ về sóng. Nương theo những con sóng, nhà thơ bắt đầu hành trình tìm kiếm nơi khởi nguồn tình yêu và phân tích, lý giải bản chất của tình yêu. Đó cũng là mong muốn muôn đời của biết bao đôi lứa. Câu trả lời vừa là sự thú nhận, vừa là sự thức nhận: “Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”. Thú nhận về sự bất lực trên hành trình tìm kiếm nguồn cội tình yêu nhưng lại là sự thức nhận sâu sắc: tình yêu là điều huyền diệu, con người chỉ có thể cảm nhận chứ không thể truy tìm cội nguồn, cũng không thể cắt nghĩa rõ ràng, tách bạch. Chẳng phải thể mà Xuân Diệu cũng chia sẻ:
“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có khó gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu”
Xuân Diệu hỏi để lý giải còn Xuân Quỳnh nghiêng về tiếng nói tình cảm. Hỏi chỉ để cảm nhận được sự hiện của tình yêu.
Như vậy, qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã thể hiện được những chiêm nghiệm, suy ngẫm về cội nguồn của tình yêu cũng như cung bậc của người phụ nữ đang yêu. Sự song hành hình tượng sóng và em đã khắc họa vẻ đẹp vừa dịu dàng, tinh tế, vừa chủ động mãnh liệt, vừa truyền thống vừa hiện đại của một tình yêu chân thành, tha thiết. Thể thơ năm chữ với cách ngắt nhịp phóng túng đã thể hiện xuất sắc âm hưởng dào dạt của sóng biển, sóng lòng. Câu hỏi tu từ, hình ảnh thơ vừa tự nhiên, trong sáng lại có sức gợi mở và suy tưởng đến không ngờ.
Trong hai đoạn thơ, hình ảnh sóng hiện lên gắn liền với những sắc thái của tình yêu mà khổ đầu là sóng cùng nỗi nhớ. Phép nhân hóa đã biến sóng thành một chủ thể cũng có tình yêu:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”
Từ “sóng” được điệp lại ba lần trong ba câu thơ liên tiếp đã tạo nên hình ảnh những con sóng trào lên từng lớp, từng lớp. Nhịp sóng trào cũng chính là nhịp nhớ thương trong trái tim người phụ nữ, cứ hết lớp này đến lớp nọ, chẳng bao giờ hết sục sôi, chẳng biết đâu là giới hạn. Giống như trong tình yêu, nhớ luôn là xúc cảm khôn nguôi và dào dạt, một nhịp yêu là một nhịp nhớ. Sự tương phản giữa “ngày” và “đêm”, “dưới lòng sâu” và “trên mặt nước” gợi ra một nỗi nhớ chiếm kích mọi chiều không gian và bao trùm lên toàn thời gian. Những câu thơ gợi ra trái tim người con gái đang yêu tựa như một đại dương rộng lớn đong đầy dòng nước tình yêu và không lúc nào yên lặng bởi những con sóng của nhớ nhung.
Nhà thơ mượn sóng để gợi nỗi nhớ trong tình yêu, nhưng có lẽ nói như thế cũng không thể hết được nên nỗi nhớ đã bật ra thành lời thổ lộ trực tiếp:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Hai câu thơ giống như một con sóng, xuyên qua cả đại dương bao la, xuyên qua cả cõi thực và cõi mộng. Nỗi nhớ không chỉ là hiện diện của ý thức mà còn lắng sâu vào tâm thức để hiện ra trong những giấc mơ. Cái dạt dào, sôi trào, da diết của nỗi nhớ dường như đã khiến cho nỗi nhớ thương tràn bờ. Dung lượng câu thơ chuyển từ bốn thành sáu câu như để đủ dung lượng để diễn tả nỗi nhớ ấy cho đến tận cùng. Sự phá vỡ quy tắc thơ ở đây cũng như ngầm ám chỉ tình yêu vốn dĩ là sự phá cách và không có giới hạn như thế, trái tim khi yêu thì có thể phá vỡ mọi rào cản và nỗi nhớ thì cũng không bao giờ thôi sục sôi.
Ba khổ thơ là những chiêm nghiệm, khám phá và đúc kết của nhà thơ về tình yêu: yêu là nhớ, yêu là thủy chung. Những người đang yêu có lẽ thấy chính mình cũng là “em”, cũng bồi hồi nhớ người yêu và một lòng mong ước bền chặt gắn bó. Những người chưa yêu có lẽ thấy khát khao cũng được trải qua những sắc thái chẳng gì có thể mang lại được ấy. Đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung đã khơi dậy sắc thái yêu trong lòng người đọc như thế đấy.
THAM KHẢO THÊM: