Ngoài phần mở đầu và kết thúc của tác phẩm Rừng xà nu, trong câu chuyện về số phận của Tnú, cuộc khởi nghĩa của dân làng, cây xà nu cũng được nói đến với một dụng ý nghệ thuật rõ nét. Dưới đây là mẫu bài văn cảm nhận hình tượng rừng xà nu ở đoạn mở đầu và kết thúc của tác phẩm Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành.
Mục lục bài viết
- 1 1. Dàn ý phân tích cảm nhận hình tượng rừng xà nu ở đoạn mở đầu và kết thúc
- 2 2. Cảm nhận hình tượng rừng xà nu ở đoạn mở đầu và kết thúc:
- 3 3. Cảm nhận hình tượng rừng xà nu ở đoạn mở đầu và kết thúc ý nghĩa nhất:
- 4 4. Cảm nhận hình tượng rừng xà nu ở đoạn mở đầu và kết thúc ấn tượng nhất:
- 5 5. Cảm nhận hình tượng rừng xà nu ở đoạn mở đầu và kết thúc hay nhất:
1. Dàn ý phân tích cảm nhận hình tượng rừng xà nu ở đoạn mở đầu và kết thúc
Mở bài:
Giới thiệu tác giả, tác phẩm Rừng xà nu
Nêu ý nghĩa hình ảnh Rừng xà nu
Thân bài:
Phân tích hình ảnh Rừng xà nu tại đoạn mở đầu và kết thúc truyện.
Hình ảnh rừng xà nu mở đầu truyện:
* Tả thực: Cây xà nu là cây trong họ thông thường mọc trên rừng ở Tây Nguyên, mọc thẳng đứng, tán lá nhô cao, thân cây rắn chắc và có sức sống mạnh mẽ.
– Mở đầu tác phẩm là khu rừng xà nu trong tầm đại bác của giặc, chúng nổ súng đã lâu mỗi ngày hai lần và tất cả đạn đại bác sẽ bắn vào cánh đồng xà nu cạnh sông lớn. Như vậy, ngay trong câu đầu của tác phẩm, NN đã dựng nên một sự sống có tư thế đối diện với thần chết và một sự sinh tồn đang đứng trước mối nguy hiểm của chiến tranh. Vậy, liệu cây xà nu bị huỷ hoại ấy có bị tuyệt chủng hay không?
– Không. Vì cây xà nu có sức sống mạnh mẽ mà không đại bác nào có thể tiêu diệt nổi (cạnh một cây đổ sập có 4,5 cây con mọc nên thành hình nhọn mũi tên chĩa ngược lên trời; Nó phóng đi cực xa khi tiếp thêm ánh nắng; . ..)
* Nghĩa biểu tượng:
– Cánh rừng xà nu bị phá huỷ dưới tầm đại bác của giặc trở thành biểu tượng sự đau thương của nhiều con người ở làng Xô Man. (Nhiều con người sống dưới tầm đại bác, cũng giống xà nu thân thể và trái tim anh Xút bị phá huỷ, bà Nhan bị chém đầu, dân làng sống giữa sự truy lùng của bọn thằng Dục, Tnú bị giặc bắt giữ rồi đánh đập dã man. ..)
– Cây xà nu là biểu tượng về sức sống bất diệt cùng nhiều phẩm chất tốt đẹp của người dân làng Xô Man.
+ Sức sống bất diệt: Sức sống bất diệt của cây xà nu có ý nghĩa biểu tượng về sức sống bất diệt của con người ở làng Xô Man. Tác giả miêu tả 3 lứa cây xà nu tiêu biểu cho 3 thế hệ người dân làng Xô Man
Cụ Mết có cặp vú “to hơn một cây xà nu lớn” và tay “cứng tựa thân cây xà nu”. Cụ Mết chính là cây xà nu đại thụ quy tụ mọi sức mạnh của rừng xà nu.
Tnú rắn chắc như một cây xà nu lớn rèn luyện qua đau thương đã trưởng thành mà không đại bác có thể tiêu diệt được.
Dít trưởng thành trong khó khăn với ý chí cùng sức mạnh tuyệt vời cũng giống như cây xà nu phóng lên cực nhanh tiếp lấy ánh mặt trời.
Cậu bé Heng là cây xà nu đang được những thế hệ đi trước dạy thêm nhiều phẩm chất khác để chuẩn bị thay thế trong cuộc chiến sinh tử nhưng có thể phải chờ đợi “năm năm, mười năm hoặc lâu hơn”.
+ Phẩm chất con người: Cây xà nu trở thành biểu tượng về lòng yêu nước (cũng giống cây xà nu phóng lên cực nhanh khi tiếp bằng ánh mặt trời) và tình yêu thương anh em, bạn bè của Tây Nguyên (cũng như những cây xà nu kết thành rừng, bao bọc, chở che lẫn nhau)
=> Rừng xà nu mang ý nghĩa biểu tượng là: Con người ở làng Xô Man hẻo lánh, vùng Tây Nguyên, cho đồng bào miền Nam và cho toàn dân tộc Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống mỹ dù đau thương vẫn quyết hy sinh tất cả vì giành giật sự sống cho Đất nước mình.
Tóm lại: Ở đoạn mở đầu ấn tượng còn lưu mãi trong tâm trí người xem là sức sống bất diệt của cây xà nu và đó cũng là ý tưởng chính của nhà văn Nguyên Ngọc khi xây dựng nên hình ảnh cây xà nu.
Hình ảnh rừng xà nu kết thúc truyện:
Đưa tiễn Tnu ra đi sau một đêm trở lại với làng, cụ Mết và Dít dẫn anh ra đến rừng xà nu cạnh con nước lớn. “Ba người đứng ở đó trông ra ngoài. Đến trong tầm mắt cũng không có gì khác biệt ngoài hình ảnh rừng xà nu tiếp nối tiến đến chân trời “
Như vậy, kết thúc tác phẩm cũng là sức sống bất hoại của cây xà nu với hình ảnh “rừng xà nu tiếp nối tiến tới chân trời”.
Thể hiện: trong truyện Rừng xà nu, cách thức mở đầu và kết thúc giống nhau để nói lên sức sống của cây xà nu biểu tượng cho sức sống bất diệt của con người VN từ thời chiến tranh chống Mỹ cứu nước.
Kết bài:
Hoàn cảnh lịch sử đã chi phối khá lớn đến quá trình sáng tạo của nhà văn Rừng xà nu từ sau 1945 (cụ thể là trong thời kỳ chiến tranh chống Hoa Kỳ) với đường lối chỉ đạo của Đảng và lòng trung thành của quần chúng cho nên dẫu có đau thương thế nào đi nữa người đọc cũng tin ở sự thắng lợi của cách mạng
2. Cảm nhận hình tượng rừng xà nu ở đoạn mở đầu và kết thúc:
Không biết từ bao giờ, mảnh đất xứ người đã trở thành quê hương thứ hai của những người xa quê.
Nguyễn Trung Thành sinh năm 1932, quê ở huyện Thăng Bình tỉnh Quảng Nam. Những năm tháng lăn lộn cùng cuộc chiến tranh chống Pháp đã giúp ông hiểu hơn về Tây Nguyên để cũng từ đó, nhiều tác phẩm có tiếng vang xuất hiện như trường ca “Đất nước đứng lên” hay bộ truyện và ký “Trên quê hương người anh hùng Điện Ngọc”. “Rừng xà nu” được viết năm 1965, là một trong các tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyên Ngọc viết về những ngày tháng chống đế quốc Mĩ. Tác phẩm là câu chuyện của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến tranh chống Mĩ nhưng bên cạnh đó là hình ảnh về cánh rừng xà nu bạt ngàn bất tận mà hai chi tiết trên đã góp phần thể hiện rõ ràng điều đó.
Trước hết ta cần biết “chi tiết” là các yếu tố có trong tác phẩm thể hiện tư tưởng của truyện. Chi tiết cũng có thể là các yếu tố nhỏ của tác phẩm nhưng thể hiện được nội tâm của nhân vật và ý nghĩa của truyện. Chi tiết có thể bắt gặp trong thơ ca hoặc văn xuôi bao gồm chi tiết miêu tả thiên nhiên, miêu tả con người, chi tiết miêu tả hành vi, chuyển biến tâm lý của nhân vật. .. góp phần quan trọng thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Hai chi tiết đầu và cuối trong tác phẩm “Rừng xà nu” cùng là hai chi tiết có chung chủ đề là miêu tả vẻ đẹp bất tận của cánh rừng xà nu lại được thể hiện ở hai vị trí khác nhau, phải chăng dụng ý nghệ thuật của hai chi tiết cũng khác nhau?
Mở đầu tác phẩm là bộ tranh miêu tả cánh rừng xà nu trong thiên nhiên luôn có sức sống kiên cường mạnh mẽ “Cạnh một cây xà nu mới đổ xuống đã có bốn năm cây con mọc lại, ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên phóng thẳng trên trời”. Nguyễn Trung Thành đã nói về sức sống ấy qua một chi tiết có tính khái quát cao “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa gần hết tầm mắt cũng không thấy khác ngoài các đồi xà nu nối tiếp chạy đến chân trời.” Trong bộ tranh còn có cả sự đau đớn của “những cây bị cắt cụt ngang nửa thân mình ngã ầm ầm như một trận bão”, có cả “những cây vừa mới lớn ngang tầm tay người đã bị đại bác chặt đứt làm đôi”. Nhưng ở đó cũng có cả nhiều cây với “các vết thương của chúng mau liền lại trên một thân thể cường tráng” và những cây mới mọc “ngọn xanh rờn hình đầu mũi tên bay vút qua trời”. Những đồi xà nu nối tiếp chạy đến chân trời ấy mở nên một khoảng không gian rộng lớn với các cánh rừng xà nu mọc san sát nhau trải dài. Trong thực tế cây xà nu có sức sống mạnh mẽ lại hay mọc như rừng nên với Nguyễn Trung Thành, kể cả bom đạn có ném trúng, có huỷ diệt thì các cây xà nu ấy vẫn luôn đứng vững và có sức sống dẻo dai, bền bỉ.
Khép lại tác phẩm, nhà văn không sử dụng hình ảnh người anh hùng Tnú đã bắn hạ tên lính trong đồn địch bằng ngọn đuốc sáng rực giữa đêm khuya. Nguyễn Trung Thành kết lại câu chuyện là hình ảnh của các cánh rừng xà nu bạt ngàn bất tận như một khúc vĩ thanh cứ ngân nga trong tim người đọc. Cụ Mết và Dít tiễn Tnú lên đường gia nhập quân giải phóng. Ba người đứng ở đó nhìn rất xa, lúc này cánh rừng xà nu không được miêu tả trực tiếp dưới góc nhìn của nhà văn mà lại được thể hiện từ cách nhìn của từng nhân vật. “Ba người đứng ở đó trông trông ra xa đến hút tầm mắt cũng không thấy khác gì cánh rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”. Chi tiết cuối ấy lại được mở cả ở bề ngang và về độ rộng. Là một bức tranh thiên nhiên nhưng nó không mang một khoảng không gian cố định. Không phải “hết tầm mắt” – không phải chỉ dừng chân tại sự giới hạn trong khả năng của con người mà là “hút tầm mắt” nghĩa là bức tranh ấy không chỉ bao la về bề rộng lớn mà còn có cả bề cao và bề xa của nó. Không phải dừng chân ở “những đồi xà nu” mà là “những rừng xà nu”. Không gian được mở rộng và trải dài vô hạn.
Hai chi tiết được bố trí ở đầu và cuối tác phẩm làm thành một kết cấu chặt chẽ, đầu cuối cố định. Kiểu kết cấu này ta cũng đã được bắt gặp trong “Chí Phèo” của Nam Cao. Nếu như trong “Chí Phèo” hình ảnh là một lò gạch hoang tàn gợi nên sự ám ảnh cho người đọc bởi những loay hoay tuyệt vọng của người nông dân cả hai chi tiết trong tác phẩm “Rừng xà nu” đều mang đầy tính gợi mở. Đầu tác phẩm rừng xà nu gợi ra câu chuyện của cuộc đời, con người trong chiến tranh, kết thúc tác phẩm rừng xà nu khép lại câu chuyện nhưng là kết lại bi kịch và mở thêm khung cảnh mới – khung cảnh tràn ngập màu xanh của sức sống bất diệt.
Hình tượng rừng xà nu xuất hiện ở đầu đến cuối tác phẩm đã góp phần xây dựng hình tượng rừng xà nu trong toàn bộ tác phẩm. Trước hết nó mang nét đặc thù của con người Tây Nguyên, gắn bó với đời sống của buôn làng, nó có mặt trong các sinh hoạt hàng ngày và cả trong cuộc chiến tranh. Đó chính là hình ảnh biểu trưng về sự hy sinh mất mát cũng với sức sống mãnh liệt của con người Tây Nguyên. Hình ảnh xà nu càng bát tận thêm ở chi tiết cuối ấy như muốn minh chứng cánh rừng xà nu tây nguyên dẫu phải hứng chịu bao sự huỷ diệt của chiến tranh thì cũng sẽ tiếp tục bay xa. Tập thể đó cũng như là sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên, bao người đã hy sinh và thế hệ khác lại nối tiếp. Nếu như ở chi tiết đầu là “những đồi xà nu nối tiếp đến chân trời” như sự hội tụ của các dân tộc làm nên sức mạnh của tây nguyên thì chi tiết ở cuối tác phẩm đó là “những rừng xà nu nối tiếp chạy lên chân trời” lại là hình ảnh chung của một khối đại đoàn kết, cũng có thể hiểu đây là sự tiếp nối giữa thế hệ này sang thế hệ khác và những thế hệ sau sẽ tiến xa thêm thế hệ trước. Trong tác phẩm đó là hình ảnh chung của những con người trên mảnh đất Tây Nguyên. Thế hệ đi đầu từ cụ Mết thì có anh Quyết, Tnú và Mai và thế hệ nối tiếp là Dít và bé Heng. Như vậy chi tiết cuối của tác phẩm đã mang ý nghĩa khái quát sâu sắc hơn nữa, như một khúc vĩ thanh ngợi ca vẻ đẹp bất tận, sức sống bất diệt của cả thiên nhiên và con người tựa như câu
“Một cây đổ cả rừng cây lại mọc
Người với người đã bao vạn mùa xuân. “
Nguyễn Trung Thành.
Một ý nghĩa khác mà hai chi tiết mang tới trong hai tác phẩm là không khí Tây Nguyên đậm đà. Hình ảnh cây xà nu ấy đã mang tới nét đặc sắc riêng biệt trên mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Nói về mỗi một địa danh người ta sẽ liên tưởng ngay đến những nét riêng biệt. Những người dân ở Phú Thọ người ta thường tự hào về cây cọ “xoè ô che nắng” ở quê nhà, người dân Bến Tre lại tự hào bởi hình ảnh quả dừa xiêm mát lạnh còn với người dân Tây Nguyên, bên cạnh cây Kơnia, người ta cũng nhắc đến những cánh rừng xà nu xanh mướt. Cây xà nu mang đậm phong vị Tây Nguyên nó được thể hiện lên trên trang viết của Nguyễn Trung Thành rất sắc nét và chân thật như mang cả hơi thở của miền đất này.
Như vậy, mở đầu là hình ảnh cây xà nu giữa bom đạn vẫn bạt ngàn sắc xanh bất diệt. Kết thúc tác phẩm cũng là sắc xanh trải dài của các cánh rừng xà nu trải dài của những cánh rừng xà nu nối tiếp tận chân trời. Có thể nói hai chi tiết đã gửi đến cho người đọc một ấn tượng sâu đậm với khung cảnh rừng xà nu bạt ngàn bất tận. Hơn mười lần hình ảnh cây xà nu được nhắc đến trong tác phẩm này đã chứng minh sự liên hệ chặt chẽ của rừng xà nu đối với cuộc sống con người. Phải chăng tình cảm được tác giả thể hiện thông qua hình ảnh cây xà nu cũng chính là lòng ngưỡng mộ đối với vẻ đẹp thiên nhiên và con người Tây Nguyên?
Viết về cánh rừng xà nu nói chung với hai chi tiết này nói riêng, Nguyễn Trung thành đã lựa chọn ngôn ngữ của khuynh hướng sử thi. Nhà văn đã tô thêm vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên trên mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Nó gợi vẻ đẹp của các cánh rừng xà nu bạt ngàn bất tận.
Hai chi tiết được nhắc đến đều có ý nghĩa rất lớn với chủ đề tư tưởng của tác phẩm. “Rừng xà nu” là một thiên truyện mang ý nghĩa của một khúc sử thi trong văn học cổ đại. Với ngôn ngữ cô đọng, nhiều hình ảnh, tác phẩm đã tái hiện được vẻ đẹp hoành tráng oai hùng của thiên nhiên, của con người và truyền thống văn hoá Tây Nguyên.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu có lần nói rằng: Người cầm bút có tài, có thể lựa chọn trong cái dòng đời cuộn chảy một khoảnh khắc với vài diễn biến ngắn ngủi nhưng đó đôi khi lại là những khoảnh khắc của cả một đời người, một đời nhân loại. Phải chăng Nguyễn Trung Thành cũng đã tìm thấy được khoảnh khắc ý nghĩa đó khi ông miêu tả hình ảnh cánh rừng xà nu vẫn cứ nối tiếp nhau chạy về chân trời.
3. Cảm nhận hình tượng rừng xà nu ở đoạn mở đầu và kết thúc ý nghĩa nhất:
Nếu súng là phương tiện chiến đấu của người lính thì nhà văn đã sử dụng cả ngòi bút của mình để trở thành vũ khí chống lại kẻ xâm lược. Trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Hoa Kỳ, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã có nhiều trải nghiệm phong phú của một người lính vừa có nguồn chất liệu hiện thực sâu sắc từ cuộc chiến tranh. Những tác phẩm của ông đã tái hiện được không khí khốc liệt của cuộc chiến tranh cùng vẻ đẹp nhân văn bên trong tâm hồn con người Việt Nam. Một trong các tác phẩm tiêu biểu nhất của ông có thể kể đến là “Rừng xà nu”. Trong tác phẩm “Rừng xà nu” nhà văn đã khắc hoạ thành công hình ảnh của cây xà nu và từ đó làm bật vẻ đẹp bất tử của những con người anh hùng làng Xô Man.
Nguyễn Trung Thành (1932) là nhà văn có duyên với đất rừng Tây Nguyên nên các sáng tác của ông thường mang nặng tính sử thi cùng cảm hứng nghệ thuật. Tác phẩm “Rừng xà nu” được viết năm 1965 là tác phẩm nổi bật nhất trong tất cả các sáng tác của Nguyễn Trung Thành vào những năm chiến tranh chống Hoa Kỳ. Hình tượng cây xà nu là hình tượng xuyên suốt tác phẩm đã mang tới một không khí đậm đà hương vị núi rừng Tây Nguyên.
Xà nu là một loài cây họ thông, nhựa và gỗ của chúng luôn mang tới giá trị cao vì chúng có quan hệ gần gũi với con người Tây Nguyên. Bởi cuộc chiến tranh nào đi qua cũng mang tới vô vàn những đau khổ và chết chóc. Với cây xà nu cũng thế, chúng phải gánh chịu nhiều đạn pháo nhưng lại có sức sống mạnh mẽ và hiên ngang. Hình ảnh rừng xà nu xuất hiện từ ngay những trang đầu của tác phẩm rồi được lặp lại nhiều lần đã gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Rừng xà nu to lớn, đồ sộ và kỳ vĩ lại là biểu tượng của bom đạn nên trong rừng không có cây nào là không cây nào lành lặn. Rừng xà nu nằm trong sự phá huỷ tàn khốc của chiến tranh khiến chúng “có nhiều cây phải cắt cụt ngang nửa thân mình, ngã ầm ầm như một trận bão”, “ở chỗ vết thương thì nhựa chảy ra, sền sệt, thơm thoang thoảng rồi dần thâm lên, đen và đặc lại trở thành những khối máu khổng lồ”. Bởi vậy cây xà nu không những được biết đến là biểu tượng của vẻ đẹp mà chúng cũng phải chịu nhiều đau đớn tương tự với bao người lính phải đánh đổi tính mạng vì chiến tranh.
Đau thương là thế, mất mát là thế nhưng các cây xà nu lại vô cùng mãnh liệt khi đứng dậy. Chúng khao khát cuộc sống một cách mạnh mẽ và thèm ánh sáng mặt trời đến độ “nó lao thật xa để đón lấy tia nắng”. Nhờ có sức sống mãnh liệt, bền bỉ và trường tồn mà các thế hệ xà nu cũng vì vậy nên chúng cứ tiếp nối nhau. “Cạnh một cây xà nu mới đổ xuống, đã có bốn năm cây con vươn lên, ngọn cao vút, hình đầu mũi tên hướng thẳng lên trời”. Hình ảnh của cây xà nu đã giúp ta gợi nghĩ về hình ảnh cây tre Việt Nam “Không may thân đổ cành rụng/Còn lại cái gốc rễ dạy nghề trồng măng”. Từ đấy, ta thấy được tinh thần chiến đấu bền bỉ, kiên cường của dân tộc ta khi lớp người lớn tuổi mất đi đã có lớp trẻ khác thay. Bên cạnh nhiều cây xà nu con không chịu đựng được thương tích thì cũng có một số cây vươn xa được chiều cao đầu người khiến cho bom đạn của kẻ thù không thể nào hạ gục được chúng, chúng phát triển lên rất nhanh chóng để thay vào các cây đã đổ. Hình ảnh cây xà nu con là hình ảnh ẩn dụ cho lòng yêu tự do cháy bỏng của người dân Tây Nguyên khi họ luôn hướng về phía ánh sáng của Đảng, của bác hồ với niềm hy vọng bất diệt vào một ngày chiến thắng.
Dù phải hy sinh vì bom đạn chiến tranh nhưng cây xà nu con vẫn là tấm tường thành vững chãi bao bọc và chở che những người dân Tây Nguyên. Rừng xà nu cũng là ẩn dụ về hình ảnh người lính chiến đấu vì tổ quốc: “Cứ thế hai ba năm trời rừng xà nu mang bộ ngực khổng lồ của mình để che chắn cho chúng tôi”. Sự hi sinh cao cả của rừng cây xà nu đã khiến nhiều người đọc có những liên tưởng xa xôi. Để có được hoà bình như ngày hôm nay thì đã có quá nhiều vị anh hùng đã phải hy sinh đi mạng người cùng nhiều những tình cảm cao đẹp khác khi chiến đấu với kẻ thù. Nhiều cây xà nu mọc liền nhau trên một ngọn đồi từ lớp nọ qua lớp khác hình thành nên rừng xà nu đó là vẻ đẹp của tính to lớn và vững chãi khiến con người không gì có thể ngăn cản được chúng: “Đứng trên đồi xà nu mà nhìn rất xa, phóng cả tầm mắt cũng không thấy đâu khác ngoài các đồi xà nu nối chân trời”. Rừng xà nu là biểu trưng của Tây Nguyên nói riêng và của cả dân tộc Việt Nam nói chung bởi chúng có nhiều đức tính đáng quý tương tự với con người Việt Nam vậy.
Cây xà nu là hình tượng thẩm mĩ đặc sắc, mang tính biểu trưng đã được Nguyễn Trung Thành khắc hoạ với cả lòng ngưỡng mộ, yêu thương và kính trọng. Nghệ thuật dùng từ, những biện pháp tu từ để so sánh, ẩn dụ cùng lời văn đầy tính tạo hình và cảm xúc đã khiến cho cây xà nu thành một sinh vật sống động gợi mở cho người đọc nhiều suy ngẫm trong lịch sử chống ngoại xâm hào hùng của tây nguyên. Ẩn đằng sau mỗi khu rừng xà nu rậm rạp, xanh tươi đó còn là sự đoàn kết, giúp nhau chiến đấu của buôn làng Tây Nguyên.
Hình tượng cây xà nu ở phần đầu truyện “Rừng xà nu” của tác giả Nguyễn Trung Thành đã đem đến cho chúng ta nhiều trải nghiệm lý thú với thiên nhiên và con người Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu mang tính thẩm mĩ cao, nhiều ý nghĩa biểu trưng đã được tác giả Nguyễn Trung Thành khắc hoạ với tất cả niềm yêu quê hương và đất nước.
4. Cảm nhận hình tượng rừng xà nu ở đoạn mở đầu và kết thúc ấn tượng nhất:
“Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành trở thành một bản anh hùng ca về cuộc đấu tranh quật cường, dũng cảm của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Nguyễn Trung Thành – nhà văn của đất và người Tây Nguyên trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến. Nếu trong thời kì kháng Pháp ông nổi tiếng với tác phẩm “Đất nước đứng lên” thì “Rừng xà nu” lại là “hịch” thời đánh Mĩ vạch ra con đường mà nhân dân Tây Nguyên đã đi qua chiến tranh Cách mạng. Trong tác phẩm này, rừng xà nu là hình tượng nổi bật, là nền cho sự phát triển của con người Tây Nguyên, làm nên âm hưởng sử thi độc đáo cho bộ truyện. Ở đoạn văn đầu đến phần văn cuối của “Rừng xà nu”, hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu và đồi xà nu trở đi về đã lưu lại dấu ấn sâu sắc trong tâm trí người đọc.
“Rừng xà nu” là câu chuyện về những người con kiên trung của một bản làng Tây Nguyên đã đạp qua sự tàn ác của quân thù để đứng lên mạnh mẽ, hết lòng đi theo Cách mạng. Người đi trước ngã xuống, người đi sau nối tiếp đứng lên cầm súng đấu tranh. Cụ Mết, Tnú, Dít, bé Heng tiêu biểu cho nhiều thế hệ nhân dân nối tiếp nhau chống giặc giữ nước. Trong cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man, rừng xà nu được tác giả nói đến với một dụng ý nhất định, đại diện cho khí phách và phẩm chất của con người Tây Nguyên thời chiến tranh Cách mạng.
Ở trang viết đầu, Nguyễn Trung Thành đã mở thêm một “thế giới Tây Nguyên” đẹp trong đau thương tang tóc và lấp lánh như một huyền thoại qua câu chuyện của những người già kể cho nhau nghe bên bếp lửa hồng giữa nhà rông. Tác giả đã dụng công miêu tả hình tượng cây xà nu và rừng xà nu dưới nòng đại bác. Rừng xà nu là một hình tượng nghệ thuật đẹp, một bức tranh thiên nhiên đậm đà hương vị Tây Nguyên, gợi lên bầu không khí sử thi cho câu chuyện.
Trước hết, rừng xà nu là bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, trùng điệp, ngút ngàn của núi rừng Tây Nguyên. Xà nu là loại cây họ gỗ mang dấu ấn tuyệt vời của miền núi cao điệp trùng song giả. Những cây xà nu hợp thành những cánh rừng xà nu và các ngọn đồi xà nu cao ngút ngàn: “nhìn rất xa, đến tận cùng tầm mắt cũng không có gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời”. Sáng tạo nghệ thuật miêu tả độc đáo, nhà văn Nguyễn Trung Thành đang dẫn người đọc đến với cánh rừng để cảm nhận sự bao la, mênh mông và bất diệt của những cánh rừng ngày đêm che chở các bản làng, cưu mang đồng bào Tây Nguyên thời chiến tranh và cả cuộc sống đời thường.
Tuy nhiên, ở đoạn văn này, ấn tượng sâu đậm nhất của rừng xà nu lại là chấn thương. Rừng xà nu “ở trong tầm đại bác của đồn giặc” và vị trí chiến lược đã khiến rừng xà nu thành mục tiêu của sự tàn sát. Rừng xà nu hiện lên trước mắt người đọc với thương tích khắp mình vì bao phen giang tay gánh chịu bom đạn: “Trong rừng xà nu mấy vạn cây không có cây nào là không bị thương”. Hình hài vết thương do cây xà nu gây cũng rất đa dạng đến nao lòng: “Có cây bị chặt cụt ngang nửa thân mình”, có cây “bị đạn đại bác chặt gãy làm đôi”, . .. Vết thương trên cây xà nu cũng hệt những vết thương trên thân thể con người, nó “không liền nổi, mà loét luôn ra”, “dần đi bầm trở lại, đen rồi đặc quánh”, nhựa xà nu là “từng cục máu lớn”, cây đau lắm thì “năm mười hôm nữa cây chết”. Thật xót xa! Nguyễn Trung Thành miêu tả cây xà nu như miêu tả một con người ở giữa núi rừng Tây Nguyên, có trong mình tinh thần yêu nước của dân tộc dũng mãnh đứng “mở bộ ngực khổng lồ của mình ra để bảo vệ ngôi nhà”. Nhưng con người ấy cũng có lúc đổ xuống vì bom đạn đại bác. Rừng xà nu hiện lên tang thương hơn nỗi mất mát của con người thời chiến tranh Cách mạng. Đó là cái chết của anh Xút bị thắt cổ trên cây sung đầu làng, cái chết thương tâm của bà Nhan bị giặc chặt đầu buộc dây vào đầu giường, sự hy sinh của anh Quyết, của mẹ con Mai và vô vàn những con người sống trong cánh rừng này.
5. Cảm nhận hình tượng rừng xà nu ở đoạn mở đầu và kết thúc hay nhất:
Nguyễn Trung Thành là cây bút có sở trường viết đề tài Tây Nguyên, vùng đất quá quen thuộc với ông qua các trang viết Đất nước đứng dậy thời chống Pháp. Khi trở lại vùng đất ấy để viết cho những con người Tây Nguyên chống Mĩ, tác giả đã thấy được cái màu xanh ngút ngàn của cánh rừng xà nu trải xa đến chân trời. Tôi yêu thích cây rừng xà nu ngay hôm ấy, ông đã thuật lại như thế. Cho nên cây xà nu trở thành ấn tượng mạnh và truyền cảm hứng sáng tạo cho ông; không những thế, đã mô tả ý tưởng và bố cục: “Tất cả đến dưới ngòi bút, tự nhiên như không bao giờ tính toán trước, là một khu rừng xà nu, nhiều cây xà nu”. (Nguyên Ngọc – về một truyện ngắn – Rừng xà nu) .
Như vậy, sau một ấn tượng mạnh truyền cảm hứng ban đầu, tên truyện Rừng xà nu đã mang ý nghĩa biểu trưng sâu rộng. “Ấy là một loại cây hùng vĩ và cao thượng, tinh khiết và trong sáng, thân cây cao vút, lực lưỡng, nhiều nhựa, tán lá vừa mềm mại lại rắn chắc lạ thường, tưởng chừng như đã tồn tại không chỉ ngàn đời trước mà còn sống mãi ngàn đời sau, từng cây, hàng vạn, hàng triệu cây vô tận”. Nguyễn Trung Thành đã miêu tả xây xà nu như vậy và ta biết vì sao ông đã lấy cây xà nu, rừng xà nu làm hình tượng cổ vũ nhân dân Tây Nguyên chống Mĩ qua truyện ngắn Rừng xà nu (1965) .
Mở đầu câu chuyện là một đoạn văn viết hết sức chi tiết về rừng xà nu hiên ngang tiến lên giữa vòng vây của quân thù: trong rừng xà nu cả vạn cây không có cây nào không đổ máu. (. ..) nhựa ứ đầy, trong vắt, thơm nồng, lấp lánh nắng hè chói chang, sau dần tụ lại, đen và trắng hoà quyện nhau thành, những khối máu khổng lồ.
Trong rừng hiếm có loại cây nào sinh trưởng phát triển khoẻ mạnh như thế. Cạnh một cây xà nu mới đổ xuống, đã có bốn năm cây con vươn lên, ngọn cao vút, hình tròn mũi tên phóng thắng trên không trung. Cũng có ít loại cây ưa sáng mặt trời hơn thế. Nó phóng lên thật cao để đón lấy ánh nắng (. ..) Đạn pháo không tiêu diệt được chúng, các vết thương của chúng mau liền lại trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên thật cao, thay thế thếnhững cây đã đổ. .. Cứ thế, hai ba năm nay, rừng xà nu ưỡn đôi ngực to của chúng ra, bao bọc cả làng. ..
Kết thúc tiểu thuyết, nhà văn đã dành gần trọn toàn bộ câu viết về rừng xà nu ở đoạn cuối: Đứng trên cây xà nu mà ngó thật xa, ra đến hết tầm mắt cũng không có gì khác hơn những đồi xà nu nối liền liếp tới chân trời. Đây là cấu trúc song song, khi tác giả kết thúc câu chuyện này thì cũng đồng thời mở thêm một câu chuyện khác. Một mặt, nó khiến người xem có cảm giác rằng kì tích anh hùng của Tnú, của dân làng mà tác giả đã kể ra chính là sự kế thừa lịch sử ngàn xưa của các thủ lĩnh lừng danh và câu chuyện sẽ vẫn mãi lưu truyền với nhiều thế hệ mới ở làng Xô Man. Mặt khác, rõ ràng câu chuyện không chỉ bó hẹp trong phạm vi của làng Xô Man mà còn có thể kéo dài đến trên khắp miền tổ quốc – tiếp nối mãi mãi chân trời.