Người lái đò sông Đà là một kiệt tác nghệ thuật được Nguyễn Tuân vẽ nên mà đại diện cho nét đẹp đó là hình tượng Người lái đò. Hãy cùng tôi làm rõ vẻ đẹp đó qua những bài cảm nhận về hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác dưới đây.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý cảm nhận hình ảnh người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác:
Mở bài: giới thiệu tác giả tác phẩm
Thân bài:
– Người lái đò giỏi giang, dũng cảm:
Cuộc chiến giữa con người và thiên nhiên
+ Con người bé nhỏ, cô đơn.
+ Con sông Đà hung dữ, khắc nghiệt với gió, nước và đá.
=> Con người chiến thắng thiên nhiên.
– Người lái đò tài hoa:
+ Khả năng điều khiển thuyền khéo léo, chính xác nhờ hiểu biết về sông Đà.
+Nắm vững các kỹ năng cần thiết để vượt qua sóng gió và thác ghềnh.
– Người lái đò khiêm tốn bình dị:
+Sau “trận chiến” họ ăn uống và chưa kể những khó khăn, nguy hiểm mà họ đã trải qua.
+Vượt qua những khó khăn thử thách từ sông Đà như một công việc hàng ngày của người dân nơi đây.
-Nghệ thuật:
+ Ngôn ngữ đa dạng không chỉ được miêu tả bằng hình ảnh mà còn được miêu tả bằng xúc giác, so sánh…
+ Tiết tấu nhanh, dồn dập, căng thẳng như thực chiến.
+ Lãng mạn, tài hoa, đôi khi còn là ước mơ từ chính tác giả.
Kết bài: đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
2. Cảm nhận hình ảnh người lái đò Sông Đà trong lúc vượt thác hay nhất:
Nguyễn Tuân là người đam mê du lịch. Sở thích ấy đã bồi đắp cho ông vốn hiểu biết phong phú về cuộc đời cũng như con người. Đó là lý do tại sao các tác phẩm của ông thường tập trung vào những điều đẹp đẽ nhất trong cuộc sống. Đặc biệt, qua tác phẩm Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã cho người đọc cảm nhận về một khung cảnh độc đáo giữa thiên nhiên và con người, đó là hình ảnh người lái đò trong cảnh vượt thác.
Bài văn “Người lái đò sông Đà” được sáng tác năm 1960, là kết quả của chuyến đi thực tế lên vùng Tây Bắc để khám phá cảnh sắc thiên nhiên cũng như tìm kiếm cái “vàng mười” trong cảnh vật và con người nơi đây. Qua đoạn văn, hình ảnh người lái đò hiện lên thật ấn tượng giữa sự hung bạo của dòng sông Đà. Trong đó, hẳn bạn đọc vẫn chưa quên cảnh vượt thác điêu luyện và tài hoa của người lái đò, một cảnh mà Nguyễn Tuân gọi là cảnh độc đáo, “xưa nay chưa từng có”.
Người lái đò xuất hiện là một ông lão trạc 70, có ngoại hình rất đặc biệt: hai tay khập khiễng như cây sào, hai chân lúc nào cũng khuỵu xuống như đang ôm một thân cây tưởng tượng, giọng nói lanh lảnh. Như tiếng nước trước ghềnh, anh nhìn quanh như vọng về một bến xa trong sương. Nguyễn Tuân chỉ với vài nét chấm phá cũng đủ khắc sâu vào tiềm thức người đọc một hình ảnh người lái đò gắn bó, một con người sinh ra và làm việc trên sông nước, một con người suốt đời chiến đấu với thác. đá, sóng, nước sông Đà để tồn tại và xây dựng quê hương Tây Bắc. Giữa khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, hiểm trở và hung bạo ấy của sông Đà, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật vẻ đẹp của tài năng và lòng dũng cảm của người lái đò qua thác ghềnh hiểm trở, qua cuộc chiến đấu ác liệt giữa những người dân với thiên nhiên. Người lái đò nhỏ bé và con thuyền mỏng manh của mình phải đối mặt với thiên nhiên hung bạo của dòng sông, một cuộc chiến không cân sức nhưng những con người dũng cảm, tỉnh táo, khôn ngoan và khéo léo đã đưa được con thuyền trở về an toàn. Vượt qua những tảng đá siêu nhỏ trên sông một cách ngoạn mục.
Trong trận vây đánh thứ nhất, sông Đà đã bày binh bố trận với 4 cửa tử, 1 cửa sinh. Ở đây nước kết hợp với đá vang lên như một thanh; những phiến đá sừng sững, uy nghiêm; Một trong số họ trông giống như đang yêu cầu thuyền tuyên bố tên của mình trước khi chiến đấu và thách thức thuyền đến gần. Khi “đá sắp xếp xong thuyền sẽ tới”. Người lái đò không sợ hãi, tiếp cận những viên đá siêu nhỏ đầu tiên với tâm thế sẵn sàng nhất. Con sông Đà khôn ngoan, nó không đấu tranh trực tiếp với người lái đò mà đấu tranh bằng nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đây nó dùng tiếng thác nước để khiêu khích “nhại”, bây giờ nó dựa vào “thác nước như xương thay đá”. Sông Đà hiểm trở, nó lao tới “xông hàng”, “liều mình đá vào nách trái”, “quỳ xuống bụng thuyền”, có khi “đập nát cả thuyền”. Sông Đà khôn ngoan và hung dữ nhưng người lái đò không sợ, “người lái đò giữ mái chèo cho khỏi sóng”. Lúc này, sông Đà đổi thế bám thuyền và dùng đòn “tóm lấy eo”. Người chèo thuyền yêu cầu lật ngược thuyền lại. Không cho người lái đò có cơ hội quay đầu lại, dòng sông Đà đã đổi thế tung đòn hiểm nhất “cả dòng nước thúc vào háng người lái đò”. Khi sóng đánh vào người lái đò, điều nguy hiểm nhất khiến anh ta “méo mặt” là chính mình. Khuôn mặt người lái đò không chỉ là một khuôn mặt biến dạng, trắng bệch vì đau đớn mà còn xanh xao vì bị ngâm lâu trong nước lạnh. Được miêu tả gián tiếp bằng thị giác và xúc giác, “mặt sông lập tức sáng bừng lên như một đàn nước, đom đóm rừng lao xuống đốt sóng.” Đó là một cuộc chiến không cân sức, dòng sông Đà hùng vĩ, dữ dội, người lái đò trông nhỏ bé, người chèo đò thì vô cùng khỏe khoắn, qua miêu tả ngắn gọn, tỉnh táo qua giọng chỉ huy của người lái đò, Nguyễn Tuân không giấu được sự khâm phục cho sự dũng cảm, dũng cảm và điềm tĩnh của người lái đò.
Trong vòng vây thứ hai, người lái đò không chỉ dũng cảm, kiên cường mà còn thể hiện trí thông minh của một người lái đò lão luyện, tinh thông binh pháp của thần sông, thần đá “ở trong lòng” dòng sông, thác nước. Ở khúc sông này, sông Đà tăng thêm nhiều cửa tử, các cửa sinh được bố trí trôi về hữu ngạn. Trong trận này, ông đánh trước với sách lược đánh nhanh thắng nhanh. Nắm vững bờm sóng sẽ tiến, nếu vững tay lái sẽ “chạy nhanh”, “lái nhanh”, tốc độ cực nhanh, nhưng sông Đà thì không phải dạng vừa đâu họ lao ra và cầm cự. Con đò và đoàn người tử nạn, người lái đò cảnh cáo “tránh chèo mau”, “kẻ xô người mở lối” quả là Nguyễn Tuân, bậc thầy ngôn ngữ, huy động hàng loạt động từ, cổ vũ. Mỗi nhịp của ông lão chèo thuyền là ông điều khiển con thuyền: nắm, phóng, bẻ lái, chạy, … Ông lái con thuyền như một vị tướng tài điều khiển, chế ngự con ngựa bất kham của sóng và của nó. Sự thông minh. và tài năng mà ông lão đã vượt qua mọi cửa ải tử thần, khiến những kẻ thua cuộc phải lộ rõ vẻ mặt “tiếc hùi hụi”. người lái đò – người tài ba, trí tuệ, một vị tướng chân chính đã đánh bại cả thần sông.
Có lẽ tất cả ác ý của sông Đà đều tập trung ở mầm cuối cùng. Không chỉ ít cửa ải hơn, trái phải đều chết, đường sinh mệnh nằm ngay giữa quân phòng thủ. Bốn năm bọn quân phía sau, lính thủy đánh bộ ở cửa khẩu bên tả ngạn Liên Xô lao ra tóm lấy thuyền lôi cả nhóm vào chỗ chết. Con sông ngày càng xảo quyệt và hiểm độc, muốn dồn con người vào chỗ chết. Sự dữ dội của dòng thác được nhà văn miêu tả bằng một ẩn dụ tài tình về cánh cổng đá đóng mở – đó là một mặt tiền bằng đá mà ở đó bức tường thành kiên cố của đồn kết thúc phù hợp với sự tấn công dồn dập, không ngừng nghỉ của những con sóng hung dữ. Nhiệm vụ của người lái đò là phóng thẳng con đò, đâm thẳng vào một khúc sông ngay giữa chòi canh, đúng lúc “cổng đá” mở ra giữa sóng dữ dội. Có lẽ lúc này, người chèo lái con thuyền của anh mới thực sự là một tay lái hoa. Không dùng quá nhiều từ, nhiều câu, hình ảnh con thuyền luồn qua khe hẹp được miêu tả bằng những câu văn ngắn gọn nhưng có dấu câu, sự kết hợp giữa động từ và danh từ theo sau: nhảy lên, nhảy ra , cửa trong, thể hiện trí tuệ và sức mạnh của người lái đò. Tốc độ phi thường của con thuyền dưới bàn tay chèo, xuyên, lướt của người lái đò không chỉ như một mũi tên tre mà còn được miêu tả tinh tế qua làn hơi nước lướt qua, con thuyền không còn lướt nữa trên mặt nước thực sự bốc hơi trong hơi nước phía trên mặt sóng. Tài năng của người lái đò thời bấy giờ bao gồm trí tuệ, kinh nghiệm, thể lực, kỹ thuật điêu luyện và sức bật – tất cả đều đạt đến mức phi thường, kỳ diệu. Vì vậy, cuối cùng bằng tất cả tài năng, trí thông minh và lòng dũng cảm của mình, người lái đò đã vượt qua con sông Đà nguy hiểm.
Cảnh vượt thác sông Đà có lẽ là một trong những kiệt tác nghệ thuật trong cuộc đời Nguyễn Tuân. Người lái đò dũng cảm và tài hoa đã chiến thắng ngoạn mục trên dòng sông Đà hung dữ và hiểm trở. Cảnh vượt thác sông Đà có lẽ đã quá quen thuộc trong suốt mấy chục năm hành nghề lái đò của ông, nhưng dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân nó đã thực sự trở thành một biểu tượng đẹp đẽ nhất của vùng núi Tây Bắc. Từng câu, từng chữ đều được Nguyễn Tuân chăm chút, từng chút một, để người đọc được đứng trên cùng một con thuyền, tận mắt chứng kiến từng hành động, từng bước chuyển mình tài hoa của người lái đò.
3. Cảm nhận hình tượng người lái đò Sông Đà trong cảnh vượt thác:
Người lái đò hiện lên trước hết là một người thợ lành nghề, có nhiều kinh nghiệm lái đò, có lòng dũng cảm, gan dạ, khéo léo, nhanh nhẹn và quyết đoán. Nguyễn Tuân đặt ngay nhân vật của mình vào một tình huống ngặt nghèo để bộc lộ hết những phẩm chất đó, nếu không muốn nói là phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Người viết gọi đây là cuộc chiến đấu gian khổ của người lái đò trên chiến trường sông Đà, của một trận thủy chiến trên mặt trận sông Đà. Đó là một cú nhảy nguy hiểm và chí mạng, diễn đi diễn lại như một trận chiến mà kẻ thù đã lộ rõ bộ mặt và dã tâm của kẻ thù số một:
“Đá ở đây hàng ngàn năm vẫn mai phục dưới lòng sông, hình như mỗi khi có thuyền xuất hiện trên con đường vắng lặng và ầm ầm này, mỗi khi thuyền nhô ra sông là có vài hòn nhảy lên, vồ lấy con thuyền. Mặt hòn nào cũng bấp bênh, đảo nào cũng nhăn nheo, méo mó hơn mặt nước. Sông Đà đã giao việc cho từng đảo. Ngay khi tôi nhìn thấy điều này, nó cho thấy những tảng đá dưới sông. Những tảng đá được chia thành ba hàng, chặn ngang dòng sông. ăn một con thuyền, một con tàu đơn độc không còn biết rẽ vào đâu để tránh những tảng đá và sẵn sàng chiến đấu…”
Trong trận chiến đó, người lái đò hai tay cầm mái chèo để khỏi bị sóng xô ngã. Khi sông Đà giáng một đòn sinh tử, nước bám vào thuyền như một đô vật túm lấy eo ông để lật úp giữa dòng nước giông bão, ông vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu lược. Hãy như thuyền trưởng, chèo lái con thuyền vượt thác ghềnh. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, chân vẫn bấu chặt bánh lái, mặt méo xệch như sóng. “Hết vòng vây thứ nhất”, người lái đò “phá vòng vây thứ hai”. Người lái đò nắm chắc kế hoạch của thần sông và thần đá. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải và bên trái đều bế tắc nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa. Thuyền đi qua cổng đá rộng mở. Bay vút, bay vút, cửa ngoài, cửa trong, con thuyền như mũi tên tre phi trong hơi nước. Trong cuộc chiến không cân sức ấy, người lái đò chỉ còn một tay giữ mái chèo, con thuyền không còn đường lùi và dòng sông như mang trong mình sức mạnh siêu nhiên của một con thủy quái. Tuy nhiên, cuối cùng người lái đò vẫn chiến thắng khiến các tướng tái mặt vì không chiếm được một chiếc thuyền nhỏ.
Người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm việc lặng lẽ, giản dị, nhờ công việc của mình mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên to lớn, kỳ vĩ, trở thành đại diện của nhân loại. Người lao động nhờ có ý chí kiên cường, kiên trì và quyết tâm cao đã chiến thắng được sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố tạo nên phẩm chất vàng mười của người dân Tây Bắc.
Nổi bật và đặc sắc nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong tác phẩm của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không chỉ nhà thơ, nhà văn mà cả những người không tham gia nhiều vào văn nghệ cũng được coi là nghệ sĩ nếu tác phẩm của họ ở mức độ như vậy. Trong Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là người lái đò tài hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm được quy luật tất yếu của sông Đà và vì có làm chủ nên mới có tự do.
Luật trên sông Đà là luật hà khắc. Một chút thiếu điềm tĩnh, thiếu chính xác hay cẩu thả, thái quá sẽ phải trả giá bằng mạng sống. Nhưng ngay cả ở những dòng sông không có thác nước, người ta cũng dễ dàng chìm vào giấc ngủ. Tóm lại, ở đâu cũng nguy hiểm. Lão lái đò vừa quen sông, vừa quen quy luật của những hòn đá trong con nước hiểm trở này, lại nắm chắc mưu kế của thần sông, thần đá. Vì vậy, trong trận chiến, anh ấy thông minh và bình tĩnh như một nhà lãnh đạo giỏi. Tất cả các giác quan của ông lão hoạt động trơn tru và chính xác. Ra trận bao giờ cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: sóng mê say. Dòng sông êm đềm trở lại. Đêm đó, nhà thuyền đốt lửa trong hang, nướng ống cơm và nói chuyện về cá Anh Vũ, cá dầm xanh, hang đá mùa khô với tiếng nổ lớn như mìn nổ ngoài đồng. Không ai nói một lời nào về chiến thắng vừa qua ở một đất nước đầy những tướng lĩnh hiếu chiến. Giống như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức lực để làm nên tác phẩm nghệ thuật, không ít người khen ngợi họ đã cố gắng. Nhà văn Nguyễn Tuân đã đưa ra nhận xét: Cuộc sống của họ hàng ngày chiến đấu với dòng sông Đà hung dữ, hàng ngày lấy mạng mình dưới thác nên không có gì đáng nhớ. Họ nghĩ, khi họ ngừng chèo. Có lẽ người lái đò anh hùng thì dễ thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa thì chỉ có Nguyễn Tuân.
4. Cảm nhận hình ảnh người lái đò Sông Đà trong lúc vượt thác ý nghĩa nhất:
Để một tác phẩm văn học lớn có giá trị lâu bền trong lòng người đọc thì nó phải xây dựng được những nhân vật điển hình trong những hoàn cảnh điển hình, hội tụ đầy đủ tài năng và tâm huyết của người nghệ sĩ. Nhân vật người lái đò trong bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là một nhân vật như thế.
Dưới ngòi bút thần kì của Nguyễn Tuân, bức tranh thiên nhiên sông Đà hiện lên vô cùng hung bạo và trữ tình, góp phần quan trọng tạo nên khung cảnh phù hợp để hình ảnh người lao động vùng núi Tây Bắc xuất hiện. Ông phát triển với hai phẩm chất: phẩm chất anh hùng và phẩm chất nghệ sĩ, tiêu biểu là người lái đò dũng cảm đã chiến đấu dũng cảm gần hai mươi năm với thác đá dưới nước sông Đà để tồn tại. Tay lái của ông ấy được mô tả là “bánh xe có hoa”. Người lái đò xuất hiện trong văn Nguyễn Tuân ấn tượng với dáng vẻ của một người sông nước: Ông đã gần bảy mươi tuổi nhưng rất cường tráng, “thân hình rắn chắc như chất sừng, chất gỗ mun” giọng nói ấm áp, ào ạt như một dòng sông” “hai cánh tay dài như cái sào”, “hai chân khuỵu xuống như vô lăng tưởng tượng”. Chỉ bằng một vài nét phác tài hoa, nhà văn dường như đã khắc họa được hình ảnh người lái đò như một người anh hùng trên sông nước, mãi mãi để lại trong lòng người đọc những dự đoán về cuộc đời nhân vật gắn liền với nghề lái đò và trình độ điêu luyện đã đạt đến trình độ nghệ sĩ.
Có lẽ tình yêu tha thiết với sông Đà của Nguyễn Tuân đã chuyển sang nhân vật người lái đò nên nhà văn đã để nhân vật của mình gắn bó với sông Đà đến mức như máu thịt, hiểu và yêu dòng sông. Độ thuộc lòng từng tên ghềnh, hơn một nghìn cái tên dù dễ hay khó đều hội tụ và lắng đọng thành dòng trong lòng người lái đò hay trong lòng Nguyễn Tuân. Ông biết sông như biết cả một “bài thơ dài, từng dấu chấm phẩy, từng dấu chấm than, từng dòng xuống dòng”. “Người lái đò nắm chắc mưu thần sông, thần đá, biết quy luật mai phục của những tảng đá đầu nguồn”. Chính vì vậy mà người lái đò đã khuất phục và chế ngự được sự hung dữ của sông Đà. Ông không phải là thần thánh mà chỉ là một người lao động bình thường bằng xương bằng thịt, nhưng bằng lòng dũng cảm và sự chính trực của mình, ông vẫn vượt qua thiên nhiên khắc nghiệt để tồn tại lao động sáng tạo trong sự nghiệp của mình thi công và xây dựng bảo vệ đất nước. Tính cách người lái đò được cụ thể hóa qua những trận chiến nảy lửa với nước, với sóng, với gió và vượt qua ba tảng đá. Trước hết là mảng vi thể thứ nhất, người đọc đặc biệt ấn tượng với những câu miêu tả đá được nhân hóa như một đội quân: “toàn là đã, đã bày ra các thế đá. Nếu có năm cửa thì có bốn cửa tử và một cửa sinh. Ngoài ra, nhà văn còn sử dụng hàng loạt động từ trùng nhau để làm nổi bật sức mạnh của đội quân đá: “mai phục”, “dâng cao”, “đứng hay nằm tùy thích”, “hất hàm”… Cộng hưởng với các động từ là những tính từ tô đậm sự tàn bạo: “ngỗ nghịch”, “méo mó”. Tất cả làm nổi bật uy thế và sức mạnh của đá sông vừa to khỏe vừa dày đặc, hung dữ đáng sợ tạo nên thế mất cân đối cho người lái đò một mình gieo vào lòng người đọc bao cảm xúc thương xót. Bên cạnh đá là nước “hòa vào đá, tiếng thác reo như tiếp thêm sức mạnh cho đá” tạo nên âm thanh dữ dội làm tăng thêm tinh thần chiến đấu. Sóng nước biết tung ra những đòn hiểm như: đánh tay, đá trái, đá gối… Có thể nói, Nguyễn Tuân đã mở rộng tầm uyên bác và văn chương của mình. Khí phách dồi dào lan tỏa khắp mọi lĩnh vực của cuộc sống, không ngừng tuôn trào, trong đó có quân sự, thể thao và tiếng nói quân sự được huy động với tần suất cao ở hai cực tả ngạn của mặt nước sông Đà. Đây là nghệ thuật vẽ mây đẩy trăng nhằm gián tiếp ca ngợi lòng dũng cảm, liêm khiết của người lái đò. Ở đoạn này, nhà văn ca ngợi người lái đò có sức chịu đựng phi thường “người lái đò cố nén vết thương, chân vẫn bám vào bánh lái”, mệnh lệnh ngắn gọn, kín đáo và anh ta “chiến thắng” cửa ai đầu tiên.
Ở vi thạch thứ hai, nước đá làm tăng thêm nhiều cái chết”dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh”, “bốn năm thủy quân không ngớt khiêu khích”… Động từ mạnh phun ra. Không ngừng trên những trang văn vang lên một phép tu từ nhân hóa vô cùng độc đáo giúp nhà văn biến sóng nước thành hùm thiêng, dòng sông tăng thêm sức mạnh để đến cực điểm Đà Giang tiếp tục giương cao tư thế anh hùng của người lái đò.
Người lái đò “không ngơi tay, nghỉ một lúc để phá vòng vây thứ hai và đổi chiến thuật”, “người lái đò đã nắm chắc kế của thần sông, thần đá, biết hết quy luật phục kích của đá” , ông chủ động tự tin, nhanh trí làm chủ tình thế “lướt sông Đà như cưỡi hổ, nắm bờm sóng, nắm dây cương, thần tốc”. Cuộc chiến của sóng tạo nên trạng thái say sóng, qua đó tôn vinh vẻ đẹp của người lái đò mưu trí, dũng cảm, kiên cường, sự chính trực và phẩm chất anh hùng của người lái đò, ở khổ thơ thứ ba này, Nguyễn Tuân muốn cho người đọc thấy được người lái đò tài hoa của mình như nghệ sĩ điều khiển môtô trên không để “vượt nước”.Tốc độ chèo nhanh, cộng với nhiều phép so sánh liên tiếp khiến người đọc có cảm giác vừa nhanh vừa khó. Nghệ thuật chèo ở đây khiến người đọc phải khâm phục. Đúng là người lái đò đã đạt đến trình độ nghệ sĩ trong nghề.
Nguyễn Tuân thực sự là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ca ngợi những con người lao động gian khổ, nguy hiểm nhưng vẻ vang, tiêu biểu là hình tượng người lái đò trong bài tùy bút “Người lái đò sông Đà” với nhiều vẻ đẹp và chất nghệ sĩ trong nghề.
THAM KHẢO THÊM: