Hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Tú Xương đã thể hiện hình tượng của một người phụ nữ tần tảo, lam lũ, thảo hiền nuôi chồng, nuôi con. Để hiểu hơn về hình tượng cũng như phẩm chất tốt đẹp của bà Tú mời các bạn cùng tham khảo ngay bài văn mẫu cảm nhận hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ hay nhất.
Mục lục bài viết
1. Bà Tú trong bài thơ Thương vợ là ai?
Bà Tú là vợ của Tế Xương có tên thật là Phạm Thị Mẫn, quê ở Lương Đường, Hải Dương. Bà xuất thân trong một gia đình Nho học nhưng sau khi làm vợ của Tú Xương, hàng ngày bà phải bôn ba đi buôn bán để nuôi chồng con. Bà Tú là một người vợ đảm thuận thảo, nhẫn nhịn, tần tảo sớm hôm để nuôi chồng nuôi con. Trong cuộc đời của Tú Xương bà là một chỗ dựa về tinh thần vững chắc của một trí thức lận đận trên chặng đường sự nghiệp đầy khó khăn chông gai.
Có lẽ mà vì vậy, trong thơ của Tú Xương hình ảnh người phụ nữ không còn là một đề tài xa lạ. Những bài thơ của Tú Xương khi viết về người phụ nữ thường mang nhiều mà sắc khác nhau: đôi lúc là mang nhiều tâm sự thầm kín, có khi lại là những câu bông đùa đầy hài hước, hóm hỉnh, hay là biết bao nỗi niềm thương xót, cảm thương. Những tác phẩm của ông đều thể hiện cảm thông, tôn trọng và lòng biết ơn chân thành sâu sắc dành cho người phụ nữ.
2. Sơ đồ tư duy cảm nhận hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ:
3. Dàn ý cảm nhận hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ:
Mở bài
– Giới thiệu đôi nét về tác giả Tế Xương
– Giới thiệu về tác phẩm “Thương vợ”
– Khái quát hình tượng nhân vật bà Tú
Thân bài
a, Bà Tú là một người phụ nữ lam lũ, vất vả
– Hoàn cảnh: quanh năm bà luôn bôn ba lặn lội “mom sông”, mang trong mình gánh nặng về gia đình.
– Thời gian: làm việc quanh năm, không ngày nào được nghỉ, làm việc từ năm này qua năm khác.
– Địa điểm: ở mom sông đây là phần chìa ra ở lòng sông không hề có sự ổn định.
=> Hoàn cảnh làm việc vô cùng vất vả, không được ổn định, bà phải lam lũ nuôi chồng,nuôi con.
– Sự lam lũ vất vả ấy của bà được thể hiện qua sự bươn chải của mình:
+ Lặn lội: vô cùng khó khăn, cực nhọc, lam lũ, lo lắng, bao nỗi gian truân. Hình ảnh “thân cò” đã gợi ra sự vất vả của bà khi gánh vác cả gia đình.
+ Thời gian “khi quãng vắng” gợi ra không gian heo hút, chứa đầy sự hiểm nguy âu lo.
+ Hình ảnh “Eo sèo… buổi đò đông” gợi ra một khung cảnh cảnh xô đẩy, chen lấn nhau ẩn chứa biết bao sự bất trắc, chứa đầy sự hiểm nguy.
– Hình ảnh “Năm nắng mười mưa” là số từ phiếm dùng để chỉ số nhiều
– Sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, ẩn dụ, hoán dụ một cách sáng tạo nhằm nhấn mạnh sự vất vả của bà Tú trong lao động khổ cực.
=> Hoàn cảnh mưu sinh rợn ngợp, đầy sự nguy hiểm qua đó thể hiện sự thương xót da diết của ông Tú.
b, Hình ảnh bà Tú với vẻ đẹp và phẩm chất vô cùng đáng quý
– Mặc dù hoàn cảnh vất vả, nhưng đối với chồng con bà Tú vẫn rất chu đáo: chăm lo, nuôi chồng, nuôi con hoàn toàn, một mình gồng gánh nuôi cả gia đình
=> Bà Tú là người phụ nữ chu đáo, đảm đang của gia đình.
– Phẩm chất đáng quý của bà còn được thể hiện qua sự chăm chỉ, tần tảo sớm hôm của mình:
+ Hình ảnh “Một duyên hai nợ” bà ý thức được việc lấy chồng đó là do duyên nợ nên không chút than vẫn
+ Sự hy sinh thầm lặng vì chồng vì con “dám quản công”, hội tụ cả đảm đang, nhẫn đại và sự tần tảo.
=> Cuộc sống có gian truân, vất vả nhưng điều đó càng làm nổi bật lên phẩm chất cao quý của bà Tú nói riêng và những người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung.
c, Giá trị nghệ thuật
– Ngôn ngữ giản dị, giàu sức gợi hình, miêu tả, biểu cảm
– Hình ảnh và ngôn ngữ văn học dân gian được vận dụng một cách sáng tạo
– Hình tượng nhân vật được xây dựng độc đáo
Kết bài
– Khái quát lại những phẩm chất tốt đẹp của nhân vật bà Tú.
– Nêu cảm nhận của bản thân.
4. Cảm nhận hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ hay nhất:
Bài thơ “Thương vợ” là một trong những bài thơ đặc sắc nhất trong sự nghiệp thơ ca của Tú Xương. Bài thơ đã khẳng định sự hy sinh tâng tảo của người vợ dành cho gia đình đồng thể hiện tình cảm trân trọng của Tú Xương một cách cảm động, thấm thía, cảm động để ông có thể được học hành và thi cử như thế. Hình ảnh của bà Tú trong tác phẩm đã gợi ra cho người đọc thấy một bức chân dung về người phụ nữ Việt Nam với biết bao phẩm chất cao quý, tốt đẹp.
Khi nhắc đến người phụ nữ mang vẻ truyền thống thì không thể không nhắc đến một người phụ nữ trong gia đình, mà ở đó người vợ luôn chăm lo danh vị, sự nghiệp của chồng. Nhân vật bà Tú cũng vậy nhưng ở cái thời nhốn nháo, Tây Tàu lẫn lộn, không còn khung cảnh mộng mơ như ngày xưa, bà Tú giờ đây cũng phải guồng gánh cuộc đời, bươn chải với cuộc sống, buôn bán để cuộc sống của gia đình được đảm bảo đầy đủ.
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Hình ảnh bà Tú hiện lên qua thời gian “quanh năm” và không gian “mom sông” của công việc buôn bán chứ không phải hiện lên từ ngoại hình, tính cách. Thời gian “quanh năm” đã gợi ra cho người đọc một thời gian vòng vô kì hạn, qua đó có thể thấy được cuộc mưu sinh đầy lam lũ vất vả ấy không có hồi kết. Không gian thể hiện qua hình ảnh “mom sông” đó chính là phần đất nhô hẳn ra phía bên lòng sông, không chỉ gợi giá trị tả thực mà còn gọi ra một không gian sinh tồn vô cùng chông chênh.
Hàng ngày bà Tú phải bươn chải với đời gánh vác cả một gia đình “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Cụm từ “nuôi đủ” đã toát ra biết bao hàm ý, thể hiện cho sự chăm lo chu đáo của một người phụ nữ dành cho gia đình từ chuyện cơm ăn áo mặc nhưng nó cũng mang hàm ý nhẫn chịn, chịu đựng. Cách nói của tác giả mang nhiều ý vị “năm con với một chồng”, có thể thấy tác giả đã tự hạ thấp mình xuống ngang hàng với các con, ông xót xa, cay đắng, tủi hổ nhận ra bản thân mình cũng chính là một trong những gánh nặng trên vai của người vợ. Câu ca dao ngày xưa khi nhắc đến hình ảnh của người phụ nữ thông thường người đọc sẽ liên tưởng tới hình ảnh của con cò:
“Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”
Nhà thơ đã vận dụng một cách sáng tạo, độc đáo về chất liệu ca dao ở hai câu thơ:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Tú Xương đã vận dụng văn học dân gian trong bài thơ của mình từ đó lại có tính sáng tạo rất độc đáo. Tác giả đã sử dụng hình ảnh “thân cò” không chỉ thể hiện một danh phận có tính khiêm nhường mà còn làm nổi bật số kiếp vô cùng lận đận, cực nhọc của bà Tú. Câu thơ sử dụng biện pháp đảo ngữ nhằm gia tăng vẻ nhọc nhằn, âm thầm của bà Tú trong công việc làm ăn. Nếu hình ảnh “đò đông” đã thể hiện cuộc mưu sinh vô cùng chông chênh, bấp bênh thì với từ láy “eo sèo” lại thể hiện sự nhốn nháo, ồn ào, sinh động, nhọc nhằn trong cồn việc của bà Tú đang phải nhẫn nhịn, chịu đựng. Hình ảnh bà Tú trong tác phẩm không chỉ lam lũ, vất vả, chịu thương, chịu khó, mà bà còn là một người phụ nữ có bổn phận vị tha, hi sinh vì gia đình để làm nên sự hạnh phúc và lẽ sống của cuộc đời mình.
Tế Xương đã nói lên nỗi niềm của người vợ với thái độ chín chắn trước cái duyên phận của mình, thái độ độ lượng trước gia cảnh của gia đình. Có lẽ người đọc cũng thấy hình ảnh một người phụ nữ trong bài thơ rất lặng lẽ an phận, không trách thân trách phận, không hề có một chút phẫn chí phiền lòng. Thành ngữ “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa” đã được tác giả vận dụng trong bài thơ làm cho vần thơ trở nên rất cô đúc. Câu thơ tựa như lời kể của tác giả dành cho người vợ trở nên day dứt, chua xót, trĩu nặng hơn bao giờ hết. Sự hi sinh và cam chịu của bà Tú càng được khẳng định nhấn mạnh một cách nổi bật hơn. Ông ý thức được nỗi gian truân, nhọc nhằn của người vợ nhưng chẳng thể đỡ đần, sẻ chia với vợ một phần nào, điều đó được thể hiện qu hai câu kết với tiếng lòng mang nặng trĩu niềm chất chứa của Tú Xương:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
Nhà thơ nói đến “thói đời” liệu có phải là buổi giao thời đã tạo ra những người chồng hờ hững hay không? Để rồi trên vai những người phụ nữ gánh nặng của trụ cột gia đình. Câu thơ đã diễn tả nỗi dằn vặt, day dứt, thái độ tự trách, và thái độ chân thành của tác giả dành cho người vợ, qua đó thể hiện tâm trạng bất lực trước số kiếp bi kịch về tinh thần của người trí thức: là người thừa trong gia đình và trong chính xã hội ấy.
Trong bài thơ “Thương vợ” có thể nói rằng hình ảnh nhân vật bà Tú đã được tác giả khắc hoạ sống động và rõ nét của một người vợ tảo tần vất vả cùng với những phẩm chất cao quý, tốt đẹp điển hình của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến: vừa chịu thương, chịu khó, đảm đang, chu đáo lại giàu lòng vị tha và đức hi sinh sâu sắc. Phía sau những tiếng thơ ấy đó là tiếng lòng của ngà thơ với thái độ trân trọng, chân thành, sự cảm thông sâu sắc cũng như nỗi day dứt của tác giả đối với người vợ dịu hiền.