Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ "Tràng Giang" hiện lên với vẻ đẹp đầy buồn bã và nặng nề tư tưởng của tác giả. Dưới đây là bài viết về: Cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý Cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang:
1.1. Mở bài:
– Giới thiệu bài thơ Tràng Giang của Huy Cận.
– Nêu sự khác biệt về vẻ đẹp thiên nhiên so với bài thơ “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu.
1.2. Thân bài:
– Tràng giang là bức tranh thiên nhiên mang vẻ đẹp cổ điển:
+ Mô tả cảnh vật: dòng sông mênh mang, sóng gợn buồn điệp điệp, con thuyền phó mặc cho cuộc đời là nỗi buồn, cành củi khô lạc mấy dòng, bờ xanh bãi vàng…
+ Không gian mở rộng theo chiều kích về độ cao, rộng, sâu.
+ Thiên nhiên mang vẻ đẹp sâu lắng được đặt trong không gian sông nước lặng lẽ và rợn ngợp được khúc xạ qua tâm hổn thỉ sĩ.
– Thiên nhiên được khúc xạ qua tâm hồn thi sĩ:
+ Nỗi buồn của Huy Cận miên man không dứt như sông nước mênh mang bất tận, theo sông nước lan tỏa rất xa.
+ Thiên nhiên được khúc xạ qua tâm hồn lãng mạn, mang nỗi buồn của thi sĩ.
+ Cái đẹp hiện lên qua tâm hồn thảng thốt của thi nhân.
1.3. Kết bài:
Nêu cảm nhận cá nhân.
2. Cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang hay nhất:
Thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ trong suốt lịch sử văn học. Huy Cận cũng không ngoại lệ, anh đã miêu tả cảnh thiên nhiên trong thơ của mình, nhưng không phải là với một sắc thái sống động, rực rỡ như trong bài “Vội vàng” của Xuân Diệu. Thay vào đó, trong bài thơ “Tràng giang”, Huy Cận đã sử dụng hình ảnh sông nước mênh mông để tạo nên bức tranh cảnh vật rộng lớn, phóng khoáng. Tuy nhiên, bức tranh này cũng mang đến nỗi buồn sâu thẳm và cảm giác cô đơn, thấu hiểu tình yêu quê hương đất nước của nhà thơ.
Ngay từ tiêu đề “Tràng giang”, chúng ta có thể hình dung được cảnh sông nước bao la, vô tận mà Huy Cận đã quan sát và tả trong bài thơ này. Dù sử dụng tên gọi của một con sông cụ thể, nhưng nhà thơ đã dùng các từ ngữ khác để mô tả cảnh sông nước rộng lớn đến mức không có giới hạn. Chính cảm xúc buồn và nhớ quê hương đã tràn ngập cả bài thơ, đặc biệt là câu “trời rộng nhớ sông dài”.
Tuy vậy, cách miêu tả của Huy Cận về thiên nhiên trong bài thơ “Tràng giang” cũng mang nét đẹp cổ điển và hiện đại. Anh sử dụng các hình ảnh thuyền, bèo, cánh chim… giống như các thi phẩm trong thơ Đường để tạo nên bức tranh cảnh chiều tà với nỗi buồn và nỗi nhớ quê hương.
Tuy các nhà thơ trung đại và nhà thơ như Huy Cận đều miêu tả thiên nhiên trong thơ ca, nhưng ở đó vẫn thể hiện nét đặc trưng của văn hóa dân tộc Việt Nam. Các hình ảnh mô tả sông nước và cảnh vật không chỉ là của con sông Hồng mà có thể là bất kì con sông nào trên đất nước Việt Nam, bởi nó mang trong mình sự gần gũi, quen thuộc của cuộc sống người dân. Thiên nhiên trong bài thơ cũng có những đặc điểm đặc sắc riêng, ví dụ như hình ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng”, không chỉ là khóm bèo trên sông mà còn thể hiện sự liên kết mạnh mẽ giữa các sinh vật trong tự nhiên. Sự miêu tả đó cả cổ điển và hiện đại, thể hiện sự độc đáo và đặc trưng của văn hóa dân tộc Việt Nam.
Không gian trong bức tranh thiên nhiên được miêu tả là mênh mông, bao la đến đáng sợ, như trong câu thơ “Nắng xuống trời lên sâu chót vót/ Sông dài trời rộng bến cô liêu”. Tuy nhiên, sự kết hợp giữa nắng và trời tạo ra một khoảng cách sâu thẳm, nhưng không chỉ cao mà còn sâu, khiến cho cảnh vật trở nên đầy ấn tượng. Nhà thơ có cảm giác như đang đứng dưới để nhìn lên, để cảm nhận được sự sâu thẳm này. Mênh mông này còn được miêu tả là không có chuyến đò ngang, không có điểm nào để kết nối cảm xúc, nhưng chỉ có bờ xanh và bãi vàng. Cảnh vật trở nên lặng lẽ, tĩnh lặng vô cùng, chỉ có riêng nhà thơ cùng cảnh vật xung quanh.
Trong không gian rộng lớn kia, các sự vật hiện ra với sự tầm thường, cô đơn và lạc lõng. Như hình ảnh “Cành khô lạc giữa mấy dòng”. Thiên nhiên không phải là vật sống, chỉ là một cành khô từ rừng sâu xa lạc giữa dòng sông. Sử dụng kỹ thuật đảo ngữ độc đáo để nhấn mạnh tính cách của vật thể. Câu thơ này gợi nhớ đến hình ảnh trong thơ của Hồ Xuân Hương “Bách buồn vì thân phận nổi nênh, giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh”, đề cập đến cảm giác cô đơn trước thiên nhiên và cuộc sống của tác giả. Hay như hình ảnh chim nghiêng trong bóng chiều xa giữa khung cảnh “Mây đùn núi bạc”. Cánh chim nhỏ nghiêng vì bóng chiều kéo xuống và chìm vào mặt nước của sông, hay còn gọi là bóng chiều đè nặng lên cánh chim, khiến nó phải nghiêng đầu và nhón cánh. Cánh chim nhỏ dưới bóng chiều trở nên nặng nề và ẩn dụ cho những con người nhỏ bé bị cuộc đời quật ngã, hay cũng là cảm giác phiền não và cá nhân của thi nhân khi trải qua những nỗi buồn trong không gian rộng lớn.
Cảnh vật được miêu tả nhẹ nhàng đến mức hầu như không có chuyển động, giống như “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” hay gió thổi trên cồn cỏ. Trong câu thơ của Nguyễn Khuyến, ta cũng thấy sóng biển nhẹ nhàng “theo làn hơi gợn tí”, tạo ra hiệu ứng tĩnh động đầy tinh tế. Hình ảnh của “Con thuyền xuôi mái nước song song/ Thuyền về nước lại sầu trăm ngả” cũng rất đặc biệt và mang tính biểu hiện tâm trạng. Thuyền và nước thường liên kết chặt chẽ với nhau, nhưng trong tác phẩm này, ta thấy sự tan rã, tách biệt giữa hai yếu tố này. Chi tiết “xuôi mái” chỉ ra sự thờ ơ, buông lỏng của thi nhân. Nỗi sầu của nước phản ánh cảm xúc chán nản và buồn tủi của tác giả, và hình ảnh con thuyền cô đơn là một trong những chủ đề quen thuộc trong thơ cổ như “Bóng buồm đã khuất bầu không/ Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời”.
Thi nhân trong bài thơ “Lầu Hoàng Hạc” của Thôi Hiệu đã gợi lên tâm trạng buồn của mình về quê hương và con nước trong hai câu thơ: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị / Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Trong khi đó, Huy Cận đã sáng tạo ra nỗi buồn của tầng lớp trí thức và tình yêu quê hương đất nước trong bài thơ “Tràng Giang” với nét đặc sắc nghệ thuật vừa cổ điển vừa hiện đại trong lối thơ bảy chữ niêm luật chặt chẽ như thơ Đường, và dồi dào nhạc điệu. Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Tràng Giang” hiện lên với vẻ đẹp đầy buồn bã và nặng nề tư tưởng của tác giả.
3. Cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang chọn lọc:
Hoài Thanh, nhà phê bình văn học, có vài nhận xét thú vị về phong trào thơ mới: “Đời ta khép mình trong vòng tự ngã, mất bề nổi tìm bề sâu, càng đi sâu càng lạnh. Ta cùng Thế Lữ thăng thiên, phiêu bồng cùng Lưu Trọng Lư, điên cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, say cùng Xuân Diệu Nhưng cửa chùa đã đóng, tình không bền, điên đã sang trạng thái tỉnh táo, cơn say còn lại một mình, ta về hồn trong bàng hoàng với Huy Cận”. Dường như mọi nỗi niềm của phong trào thơ mới đều tập trung ở Huy Cận, và một trong những minh chứng sống động nhất cho điều này là bài thơ “Tràng giang” khắc họa khung cảnh thiên nhiên sông nước với một nỗi niềm man mác, bâng khuâng. .
Huy Cận, sinh Cù Huy Cận ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, sinh năm 1919, say mê thơ Việt và thơ Đường, chịu ảnh hưởng nặng nề văn học Pháp. Những bài thơ của anh ấy giàu chủ đề triết học và chiêm nghiệm, và các tuyển tập đáng chú ý của anh ấy bao gồm Lửa thiêng (Lửa thiêng), Vũ trụ ca (Ode to the Universe), và Trời mỗi ngày lại sáng (The Sky Shines Every Day).
“Tràng giang” là bài thơ nằm trong Lửa thiêng, tập thơ đầu tay của Huy Cận, được đánh giá là một trong những tác phẩm hay nhất, tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới, đánh dấu phong cách riêng của Huy Cận so với nhiều tác giả cùng thời. Cảm hứng cho bài thơ bắt nguồn từ vùng nước sông Hồng rộng lớn và đầy sóng gió, với màu sắc cổ điển và hình ảnh cổ điển thấm đẫm trong ngôn từ và hình ảnh của bài thơ. Qua đây, nhà thơ thể hiện thân phận con người, tình yêu quê hương đất nước, tình cảm gắn bó sâu nặng, tất cả ẩn chứa một cách tinh tế trong những dòng thơ.
Tràng giang – tự thân nhan đề đã gợi cảm giác ám ảnh về không gian trong tâm hồn Huy Cận. Trong khi “Tràng giang” thường được đọc là “trường giang” trong tiếng Việt, tác giả đã biến nó thành “ang” đồng âm, do đó mở rộng nội hàm của tiêu đề. Sự mở rộng này mang đến cho người đọc một cảm nhận mới, bởi Tràng giang không còn chỉ là một dòng sông dài mà là một “sông lớn” – một không gian bao la, rộng lớn gợi một chiều vũ trụ. Hơn nữa, Tràng giang là một từ Hán Việt có thanh điệu cổ gợi tả một dòng sông không chỉ mang đặc điểm địa lý về chiều dài, chiều rộng mà còn có chiều sâu về mặt lịch sử, chảy qua thời gian và mang theo di sản văn hóa hàng ngàn năm của nhân dân. .
Nhan đề “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” trước hết dẫn ta đến hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm, đồng thời hướng ta đến việc hiểu nội dung, cảm xúc chủ đạo của bài thơ – sự miêu tả một không gian thiên nhiên rộng lớn, có tầm bao quát, bao gồm chiều rộng vô tận của bầu trời, chiều dài vô tận của dòng sông và chiều cao giữa bầu trời và mặt nước. Từ những nét đặc trưng này, những cảm xúc chủ đạo của nhà thơ được bộc lộ – một nỗi nhớ da diết, mất phương hướng giữa thiên nhiên bao la, một tâm hồn nhạy cảm, cô đơn lạc lõng trước sự bao la của vũ trụ.
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Đại thi hào Nguyễn Du đã viết trong tác phẩm Truyện Kiều: “Cảnh nào cũng đượm sầu. Trong cảnh buồn không bao giờ thấy vui”. Tương tự, mỗi dòng thơ Huy Cận miêu tả một khung cảnh sống động luôn nhuốm một tâm trạng u uất. Chẳng hạn, câu thơ “Sóng sông trào dâng sầu” miêu tả những đợt sóng nhẹ nhàng của một dòng sông rộng lớn gợi lên một nỗi buồn vô hạn, vĩnh viễn. Cụm từ “điệp điệp” thể hiện tính chất tuần hoàn, lặp đi lặp lại của cảm xúc này, phản ánh cảm giác bị mắc kẹt trong vòng quay không hồi kết của tác giả. Ngay cả khi một chiếc thuyền xuất hiện trên sông, tiếp thêm sức sống và chuyển động cho cảnh quan, nó cũng đại diện cho sự ngắn ngủi của cuộc sống và sự chia tay không thể tránh khỏi, vốn là những chủ đề lặp đi lặp lại trong thơ ca cổ điển.
Trong thơ ca cổ điển, con thuyền và dòng sông thường được sử dụng như những hình ảnh tượng trưng thể hiện sự phù du, chia ly của cuộc đời. Ví dụ, dòng “Con thuyền chảy song song với dòng sông” gợi ý rằng mặc dù con thuyền và dòng sông dường như được kết nối với nhau, nhưng chúng không bao giờ thực sự giao nhau. Từ “song song” nhấn mạnh ý nghĩa sâu sắc của sự chia ly, mất mát thể hiện ở câu sau “thuyền lại trở về nước”. Điều này truyền tải một cảm giác buồn bã và than thở sâu sắc cho những thứ được cho là tồn tại mãi mãi nhưng chắc chắn sẽ biến mất. Câu cuối của đoạn văn “Một nhành khô trôi theo sóng” là một ẩn dụ hiện đại tượng trưng cho những kiếp người nhỏ bé, héo úa, cô đơn trôi giạt vô định trên dòng sông bao la sóng vỗ, không biết tìm về đâu. hòa bình.
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Một hình ảnh ẩn dụ trong bài thơ “Bèo dạt về đâu” là “Hàng nối hàng bèo dạt về đâu”, mô tả sự bất định của cuộc sống, mà ai cũng phải trải qua, khi nổi trôi trên dòng sông cuộc đời rộng lớn. Câu hỏi “về đâu” là một câu hỏi đau đớn, tác động đến cuộc sống, xã hội và tâm hồn của nhà văn. Sử dụng từ “mênh mông” và “lặng lẽ” tạo ra cảm giác cô đơn và hoang vắng cho cảnh vật và con người, với từ “không” kết hợp với cụm từ “không một chuyến đò”, “không cầu” đẩy cảm giác hoang vắng lên đến đỉnh điểm, đến tận cùng nỗi cô đơn và lạc lõng giữa không gian rộng lớn và buồn tẻ. Cuối cùng, chỉ có “Bờ xanh tiếp bãi vàng” là gợi lên một khung cảnh tuyệt đẹp nhưng đầy cô đơn, khi con người trở nên nhỏ bé và tuyệt vọng, không ai hiểu và chia sẻ nỗi buồn trong tâm hồn tác giả.
Bài thơ “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” mô tả một cảnh vật hùng vĩ, với mây cao và núi bạc được xếp chồng lên nhau tạo thành khung cảnh rộng lớn. Một con chim nhỏ cô đơn xuất hiện và nghiêng cánh cho bóng chiều buông xuống, tạo ra một hình ảnh ước lệ và tượng trưng cho nỗi nhớ quê hương trong thơ ca cổ điển. Nhà thơ cũng nhớ về quê hương của mình, một nỗi nhớ chung của nhiều người trong thời đại đó, khi không cần “khói hoàng hôn” để nhớ về quê hương. Điều này thể hiện sự đau đớn về mất nước trong một thời đại đầy sóng gió.
Bài thơ Tràng Giang của Huy Cận mang phong cách và tinh thần thơ đặc trưng của ông. Câu nói về Huy Cận “Chàng là con một người mẹ hay buồn, suốt đời chàng luôn đầy nước mắt” cho thấy ông có vẻ như đã trải qua một số khó khăn trong cuộc đời, với một tâm hồn lẻ loi. Do đó, ông thường mang nỗi buồn sâu sắc, buồn cho mọi người, buồn cho sự đau đớn của quê hương và đất nước, và buồn cho chính bản thân ông. Thơ của Huy Cận thường mang một chữ “buồn” to lớn kết hợp với một cảm giác không gian lạ lùng, tất cả đã tạo nên một tinh thần thơ đặc trưng và khác biệt trong phong trào thơ mới từ năm 1932 đến 1945.