Sông Hương, dòng sông dịu dàng mà kiêu hãnh, uốn lượn quanh cố đô Huế. Qua ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương không chỉ là một dòng sông địa lý mà còn là một biểu tượng, là linh hồn của xứ Huế mộng mơ. Dưới đây là bài cảm nhận về tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông hay nhất.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý cảm nhận Ai đã đặt tên cho dòng sông:
Mở bài:
Tác giả
- Hoàng Phủ Ngọc Tường có sở trường với bút kí
- Ông là người có công đưa thể tuỳ bút lên tầm cao mới và đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào
- Các sáng tác của ông có sự kết hợp nhuần nhuyễn chất trí tuệ, trữ tình, nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều
- Lối hành văn hướng nội súc tích mê đắm tài hoa
Tác phẩm
- Bài kí được sáng tác vào ngày 4-1-1981, sau được in trong tập cùng tên năm 1986.
- Tác phẩm được gợi cảm hứng trước vẻ đẹp thơ mộng của dòng sông Hương.
- Chính nhà văn cũng từng viết: “Chính sông Hương và thành phố của nó đã gợi cho tôi chút gì vang bóng của thời gian. Hình tượng gặp tình nhân lí tưởng của Thuý Kiều tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc cả hai cùng kết hợp gắn bó trong một tình yêu muôn thưở.”
Thân bài:
a. Hình tượng sông Hương
- Dòng sông thiên nhiên
- Vẻ đẹp của sông thượng nguồn: “bản trường ca của rừng già”, “rầm rộ”,”chói lọi”,“người con gái Di-gan”,”hun đúc”, “người con gái của rừng già”, “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”,….
- Vẻ đẹp của sông Hương từ thượng nguồn đến Huế: sông Hương như một người con gái dịu dàng, đầy nữ tính, quyến rũ, lả lơi đang chờ đợi người tình trăm năm.
- Vẻ đẹp của sông Hương trong lòng Huế: sông Hương hiện lên mang những cảm xúc rất con người sau hành trình dài mong đợi tìm kiếm người yêu nay trở nên vui sướng, yên tâm hạnh phúc quấn quýt, say đắm trong tình yêu.
- Vẻ đẹp của sông Hương khi từ biệt người yêu- thành phố Huế để đi ra biển: Sông Hương lưu luyến, bịn rịn với một khát vọng được gắn bó, được lưu lại mãi với mảnh đất Huế.
- Dòng sông lịch sử
- Người con gái Hương giang như là một nhân chứng lịch sử của Huế: “soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ”, chứng kiến bao cảnh đau thương, mất mát của các cuộc khởi nghĩa,…
- Người con gái Hương giang đầy anh hùng: trong bao cuộc chiến đấu anh hùng trong thời kì trung đại đến những chiến công vang dội của cách mạng tháng Tám, sông Hương đều gắn bó không rời với thành phố Huế.
- Dòng sông văn hóa
- Hương giang là “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở” với toàn bộ nền nhã nhạc, âm nhạc cổ điển Huế hay những bản đàn theo suốt cuộc đời Kiều,….đều được sinh thành trên dòng sông Hương.
- Người con gái Hương giang còn là người tài nữ đánh đàn trong đêm khuya và nàng không bao giờ lặp lại mình trong các tác phẩm, cảm hứng thơ ca của các thi nhân.
b. Hình tượng cái tôi tác giả
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhìn ngắm dòng sông ở nhiều góc độ, miêu tả, khắc hoạ dòng sông ở nhiều phương diện. Qua đó có thể thấy ông là một nhà văn luôn độc đáo, sáng tạo trong liên tưởng, so sánh cùng một lối viết tài hoa, uyên bác. Hoàng Phủ Ngọc Tường quả thực mang trong mình một cái tôi nghệ sĩ có tình yêu nồng nàn, yêu say đắm, yêu tha thiết với dòng sông Hương, với thành phố Huế và với quê hương, đất nước.
Kết bài:
Đánh giá giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật.
2. Cảm nhận Ai đã đặt tên cho dòng sông hay nhất:
Dòng sông Hương xinh đẹp là một đặc trưng của Huế với những nét đẹp cổ kính, trầm mặc, dịu dàng, thơ mộng. Có lẽ bởi vì thế nên các nhà thơ, nhà văn khi viết về dòng sông này đều hết sức nâng niu, trân trọng. Và Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng không ngoại lệ, ông cũng đã dành cho sông Hương những rung cảm như thế. Bằng ngòi bút nghệ thuật tài năng cùng tình yêu thương, sự gắn bó với Hương giang, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết lên tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, từ đó mang đến cho người đọc những vẻ đẹp của người con gái Hương giang.
Trước hết, tác giả làm nổi bật lên vẻ đẹp của sông Hương nơi thượng nguồn.”Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói… thành phố duy nhất”. Nhà văn đã đặt dòng sông thương ở thế so sánh ngang với những dòng sông đẹp khác trên thế giới. Qua đây, ông khẳng định sông Hương là một dòng sông đẹp, thơ mộng, tôn vinh, ngợi ca vẻ đẹp sông Hương, đồng thời thể hiện tình yêu Huế, yêu thiên nhiên đất nước của tác giả. “Chỉ sông Hương…duy nhất”. Câu văn đã khẳng định được sự độc đáo, thuỷ chung của sông Hương, song song với đó làm nổi bất được vổn hiểu biết phong phú về địa lý của tác giả.
Sông Hương mang một vẻ đẹp đầy dữ dội mà hết sức trữ tình.”Trước khi về đến vùng châu thổ…bí ẩn”. Đây là một biện pháp so sánh đầy tinh tế, khiến sông Hương hiện lên giống như bản trường ca dài, hào hùng đầy nguyên sơ và mang âm hưởng sử thi. Bản trường ca ấy là sự kết hợp hoàn hảo bởi nhiều cung bậc, tiết tấu. Ở câu văn tiếp theo, tác giả sử dụng một loạt các động từ, tính từ, tạo một hiệu quả nghệ thuật hết sức độc đáo”rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn….đáy vực bí ẩn”. Các từ như “rầm rộ,mãnh liệt,cuộn xoáy,…” đã gợi lên sự mãnh liệt, hùng vĩ, dữ dội, tràn đầy sức sống của sông Hương. Một lần nữa, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại tiếp tục thể hiện được vốn hiểu biết sâu rộng của mình về kiến thức âm nhạc.
Sông Hương khoác lên mình một vẻ đẹp hết sức trữ tình. “Và cũng có lúc…của hoa đỗ quyên rừng.” Đây là một hình ảnh đầy sức gợi. “Chói lọi” đã gợi lên một sắc đỏ tươi như phát sáng, gợi lên một vẻ đẹp rực rỡ, nóng bỏng, quyến rũ của Hương giang. “Dặm dài” gợi lên một sắc đỏ như được trải dài đến không gian bao la, rộng lớn. Một câu văn dài kết hợp với cách ngắt nhịp nhanh, dồn đạp cùng thủ pháp đối lập đã giúp sông Hương hiện lên vừa mang vẻ đẹp dữ dội mãnh liệt vừa thơ mộng, trữ tình biết bao.
Người con gái Hương giang ấy mang trong mình tâm hồn, tính cách của một cô gái Di-gan. “Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương….man dại.” Ở đây, tác giả đã so sánh sông Hương như một người con gái Di-gan. Cô gái Di-gan là một cô gái trẻ trung, sống du mục thích ca hát, nhảy múa. Hình ảnh sông Hương lúc này hiện lên nổi bật với cá tính riêng biệt, một dòng sông mang vẻ đẹp tự do, phóng khoáng, trong sáng, hồn nhiên, tràn đầy sức sống song cũng rất bản lĩnh, gan dạ.
Sông Hương còn mang trong mình một mối quan hệ với rừng già “Rừng già đã hun đúc cho…của mình.” “Hun đúc” là một động từ chỉ sự nuôi dưỡng, tôi luyện. Do cấu trúc đặc biệt của rừng già mà nó đã làm lên bản lĩnh gan dạ cho dòng sông. Rừng già đã “chế ngự”, ngăn lại bản năng hoang dã của cô gái Di-gan và biến sông Hương trở thành người mẹ phù sa dịu dàng, trí tuệ. Hai hình ảnh so sánh và nhân hoá khiến sông Hương trở nên trưởng thành, sang trọng, quý phái, mang cốt cách văn hoá. Hình ảnh “người mẹ phù sa…xứ sở” đã nhấn mạnh được vai trò của sông Hương khi nó bồi đắp phù sa phì nhiêu màu mỡ cho những mảnh đất mà nó đi qua và sinh thành, nuôi dưỡng những giá trị văn hoá cho quê hương xứ sở. Có một lời nhắn nhủ và nhắc nhở khiến người đọc hết sức tâm đắc. “Nếu chỉ mải mê…Kim Phụng”. Hoàng Phủ Ngọc Tường am hiểu tường tận về dòng sông Hương cùng sự công phu, muốn lên đến tận cùng nơi thượng nguồn để ngắm vẻ đẹp của nó. Điều này đã lí giải vì sao sông Hương ra khỏi núi không còn man dại ở nơi thượng nguồn. Dòng sông đã khoá cửa tâm hồn, đã giấu đi một phần bản chất, một phần tâm hồn sâu thẳm của nó ở những hang đá dưới chân núi Kim Phụng.
Ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường tiếp tục bay cao bay xa, vẽ ra trước mắt chúng ta là vẻ đẹp của dòng sông Hương và ngoại ô thành phố Huế. Trước hết, sông Hương hiện lên mang vẻ đẹp đầy nữ tính qua biện pháp nhân hoá và ẩn dụ: ‘Phải nhiều…hoa dại”. Đây là một hình ảnh giàu sức gợi,, gợi ra dáng nằm của sông Hương đầy thơ mộng, gợi cảm và duy dáng. Sông Hương hiện lên như một người con gái đầy nữ tính, quyến rũ, lả lơi đang chờ đợi người tình trăm năm đến đánh thức dậy. Câu văn nhuốm màu cổ tích ‘nàng công chúa ngủ trong rừng” đang “mơ màng” trong một giấc ngủ đẹp đầy quyến rũ, dòng sông như thực như mơ- cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại. Đây là một không gian diễm lệ, trong trẻo, thơ mộng, nhuốm màu cổ tích.
Sông Hương hiện lên với một vẻ đẹp mạnh mẽ, chủ động. Người con gái Hương giang ấy chuyển dòng một cách liên tục. “Vừa ra khỏi vùng núi…liên tục”. Có lúc “nó theo hướng nam bắc….xuôi dần về Huế”. Sông Hương lúc này giống như một người con gái bắt đầu một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp người tình mong đợi của nó-thành phố Huế thân yêu. Sự chuyển dòng đã bừng tỉnh dòng, bừng dáng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân. Người con gái Hương giang lúc này như đang vội vã, háo hức bắt đầu tìm kiếm người tình mong đợi sau bao ngày xa cách. Khi chảy qua vùng đồng bằng, sông Hương còn có nhiều ngã rẽ, khúc quanh. “Sông Hương vòng giữa….chân đồi Thiên Mụ.”Sông Hương đã uốn mình theo những đường cong thật mềm mại,nữ tính, gợi cảm và đầy quyến rũ. Lại một lần nữa, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể hiện được vốn hiểu biết đầy phong phú của mình về lĩnh vực địa lý. Hình ảnh dòng sông lúc này gợi liên tưởng đến nét”ngoằn ngoèo” của áng tóc trữ tình tuôn dài, tuôn dài của sông Đà.
Sông Hương mang vẻ đẹp hùng vĩ với cảnh quan đôi bờ. “Từ Tuần về đây…của Trường Sơn.” Hai từ “dư vang” đã gợi lên một dư âm vang vọng, gợi ra dòng chảy sông Hương vẫn mang sức sống mãnh liệt của đại ngàn. “Vượt qua một…con thoi”. Hai từ “sừng sững” cùng biện pháp so sánh “như thành quách” đã diễn tả vẻ đẹp hùng vĩ, uy nghiêm của những dãy đồi bên bờ. “Những điểm cao đột ngột… Lựu Bảo” đã gợi lên một bức tranh sông Hương như chạm như khắc. Chính những dãy đồi sừng sững ấy như kiềm chế sức mạnh của sông Hương khiến cho dòng sông mềm mại, nhỏ bé và dịu dàng hẳn đi như một tấm lụa.
Chính “những chiếc…thoi” đã dệt lên tấm lụa khổng lồ. Để từ đó, sông Hương hiện lên với một vẻ đẹp lộng lẫy. Khi qua lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản “sắc nước trở nên xanh thăm thẳm” Đây là một màu xanh đậm có chiều sâu thăm thẳm. Khi đi qua những ngọn đồi thì sông Hương phản chiếu màu sắc trên nền trời tây nam, thành phố “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” Hình ảnh ấy đã gợi lên vẻ đẹp lộng lẫy như một đoá hoa phù dung mà chỉ riêng Huế mới có. Cảnh sắc đôi bờ hiện lên thật diễm lệ, sông Hương như có một diện mạo xinh đẹp, lộng lẫy, quyến rũ. Người con gái sông Hương như đang sửa soạn, điểm trang để chuẩn bị gặp người mình yêu thương.
Sông Hương mang vẻ đẹp như triết lí như cổ thi.”Giữa đám quần sơn…thượng lưu”. Khi chảy qua lăng tẩm đền đài- nơi yên nghỉ của các vua chúa, sông Hương như trầm mặc hẳn đi bởi nó đang chảy qua một giấc ngủ nghìn năm của các vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch. Những từ ngữ “u tịch, âm u, thiên cổ,…” đã gợi ra không khí cổ lính, chính trầm tích lịch sử ấy mang lại vẻ trầm mặc cho sông Hương.Hình ảnh so sánh sông Hương “như triết lĩ, như cổ thi” mang đầy sức gợi. “Triết lí” là sự trải nghiệm mà được đúc kết thành chân lí.”Cổ thi” là thơ cổ giàu chất thơ chất hoạ. Hình ảnh trừu tượng nhưng giúp dòng sông hội tụ dấu ấn của thi ca, triết học và nhạc hoạ. Sông Hương còn như hoà nhập với mảnh đất, con người xứ Huế khi nó gặp “tiếng chuông…tiếng gà.”
Giữa lòng thành phố thương yêu, sông Hương mềm mại như một dải lụa, lưu tốc của sông Hương ở đoạn này cũng giảm hẳn đi. “Những chi lưu…yên tĩnh.” Nhà Văn còn liên tưởng tới dòng chảy hùng vĩ của sông Nê-va nước Nga với những câu văn giàu chất thơ “Tôi đã đến…Ban-tich.” Hoàng Phủ Ngọc Tường con liên tưởng tới nhà triết học Hô-ra-clit đã khóc suốt một đời vì những thành phố. Điệu chảy khác thường của sông Hương lúc này được tác giả gọi là điệu slow tình cảm mà sông Hương dành riêng cho Huế. Điệu slow tình cảm ấy còn gắn với văn hoá tâm linh của xứ Huế “có thể cảm nhận…trôi về.”
Người con gái Hương giang còn là nhân vật ghi dấu lại bao nét văn hoá của dân tộc, đó là những khi về đêm với làn điệu ca Huế ngọt ngào trên dòng sông Hương, là người tài nữ trên khoang thuyền với tiếng đàn tinh tế, say đắm lòng người khi đêm khuya xuống, là những câu hò dân gian khiến bao người mê đắm.
Dường như với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương đã trở thành một phần đặc biệt của vùng đất cố đô Huế thân thương- nơi mà ông gửi bao thương, gửi bao nhớ. Dưới ngòi bút nghệ thuật tài tình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đẫ khiến Sông Hương hiện lên như hồn thơ của những người thi sĩ, có tâm trạng, có cảm xúc buồn, có cảm xúc vui, có cảm xúc thương, có cảm xúc nhớ, có cảm xúc dịu dàng, có cảm xúc e ấp và có cả sự quật cường,mạnh mẽ, mãnh liệt, dữ dội. Sông Hương hiện lên như có linh hồn tràn đầy sức sống của một cô gái si tình say đắm trong tình yêu. Qua đó, thể hiện được tình yêu, niềm tự hào tha thiết của tác giả với dòng sông Hương và xứ Huế mộng mơ.
3. Cảm nhận Ai đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường:
Ai đã đặt tên cho dòng sông Hương? Câu hỏi ấy như một lời mời gọi chúng ta cùng khám phá một thế giới tâm hồn phong phú, đa dạng. Qua ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương không chỉ là một dòng sông địa lý mà còn là một biểu tượng, là nơi gửi gắm những tâm tư, tình cảm sâu sắc của nhà văn. Bài viết này sẽ đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: Đằng sau những dòng chữ ấy là một tâm hồn nghệ sĩ như thế nào?
Nghệ thuật nói chung và văn chương nói riêng đều là những tấm gương phản chiếu hiện thực cuộc sống. Văn chương bao giờ cũng đi ra từ cuộc đời, cũng lớn lên từ hiện thực và rồi từ đó cánh diều nghệ thuật sẽ nhờ ngọn gió cảm xúc mà cất cánh bay cao. Từ nguồn nhựa sống mãnh liệt mà đời sống ban phát, người nghệ sĩ sáng tác nên những trang tuyệt bút mà qua đó đã nổi bật hình ảnh cuộc đời, con người, thiên nhiên thông qua những hình tượng nghệ thuật đặc sắc. Hình tượng văn học cũng như viên pha lê tinh khiết, bề ngoài nó đơn thuần chỉ là phản ánh cuộc đời đầy màu sắc nhưng ẩn chứa sâu thẳm viên pha lê ấy lại mang sức nặng của vẻ đẹp đời sống. Hình tượng ấy chính là phương tiện, là sợi dây truyền đi cái nhìn khách quan đầy chân tình của tác giả đến người đọc. Nó có thể là con người, là đồ vật… song tất cả hình tượng đều mang trong mình sứ mệnh cao cả – chính là nhịp cầu vô hình dẫn dắt những trái tim đến với trái tim, suy nghĩ đến với suy nghĩ, để nhà văn có thể cùng với bạn đọc giãi bày những tâm tư, những khát vọng, hướng đến những giá trị cao đẹp trong đời sống. Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cây bút xuất sắc trong việc tạo ra những hình tượng như thế. Ông sinh ra, lớn lên, và làm việc ở xứ Huế mộng mơ, nơi nổi tiếng với những điệu ca cổ say đắm lòng người. Chính nơi đây là nguồn cảm hứng bất tận cho ông viết nên những tác phẩm để đời của mình. Gắn bó ruột thịt với nơi này nên hầu như các tác phẩm của ông đều viết về Huế đến nỗi người ta gọi ông bằng một danh xưng gần gũi đó chính là “nhà văn của xứ Huế”. Ông chuyên viết về thể loại bút kí với nét đặc trưng tiêu biểu là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều, được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú uyên thâm về triết học, địa lí, văn hóa, lịch sử… Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm, tài hoa. Tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của ông cũng được viết dưới thể loại bút kí quen thuộc, ra đời năm 1981 khi Hoàng Phủ Ngọc Tường sống ở Huế bên bờ sông Hương. Tình yêu máu thịt đối với quê hương cũng lớn lên từng ngày và nó hiệu hữu mọi thời gian, mọi không gian làm nên một bài kí ca ngợi sông Hương như một biểu tượng của xứ Huế, từ đó bộc lộ cái tôi trữ tình tác giả với tình yêu quê hương đất nước nồng nàn, sâu sắc. Tìm hiểu tác phẩm, bạn đọc không khỏi băn khoăn với tựa đề ”Ai đã đặt tên cho dòng sông?”- một nhan đề lạ, độc đáo ẩn chứa trong hình thức một câu hỏi thoáng ngẩn ngơ nhưng rất thi sĩ. Đó là một câu hỏi đầy suy tư, thâm trầm của người nghệ sĩ. Câu hỏi về cái tên đẹp của dòng sông, về những con người khai phá miền đất ấy và đặt tên cho dòng sông đặc biệt làm nên vẻ đẹp sông Hương xứ Huế. Từ thoáng ngẩn ngơ này bao nhiêu cái đẹp ùa về trong tâm trí tác giả, khơi nên mạch viết dạt dào về nhan sắc thiên phú của dòng nước êm đềm chảy qua cố đô Huế. Bài bút kí viết về sự gắn bó của sông Hương với lịch sử văn hóa dân tộc, khẳng định” Dòng sông huyền nhiệm nơi sinh ra vẻ đẹp của tâm hồn đất nước “. Câu hỏi đó định hướng người đọc khám phá sông Hướng ở những khía cạnh đặc biệt mới mẻ, khía cạnh văn hóa thẩm mỉ, truyền cảm hứng cho độc giả về một tình yêu xứ sở thiết tha.
Viết về bất cứ dòng sông nào trên đất nước, người ta đều cần có, cần thể hiện được tình yêu lắng sâu và một sự am tường về địa lí, lích sử, văn hóa gắn liền với chúng. Bởi các dòng sông luôn là cầu nối của những vùng, những nền văn hóa đa dạng, lắm sắc màu mà cư dân sống trong vòng tay của chúng phải vô vàn biết ơn. Đây cũng là thử thách của Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhưng chính thách thức này đã chuyển hóa thành niềm giục giã đầy tự nhiên tha thiết trong tâm hồn con người yêu sông hương, yêu Huế này.
Bằng con mắt nhìn đầy chân thực của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương hiện lên là dòng sông tự nhiên, dòng sông địa lí. Mở đầu tác phẩm, nhà văn đã thể hiện quan điểm của mình về sự khác biệt của dòng sông quê hương: ”Trong những dòng sông đẹp của các nước mà tôi thường nghe nói đến hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Hoàng Phủ Ngọc Tường tự hào, hãnh diện về con sông Hương của quê hương xứ sở và xếp sông Hương vào danh sách những dòng sông đẹp. Từ đó, tác giả tiếp cận sông Hương từ góc độ văn hóa thẩm mĩ, đi vào khám phá những nét độc đáo của dòng sông này. Sông Hương thuộc về một thành phố duy nhất – sông Hương được soi chiếu trong mối quan hệ đặc biệt: sông Hương và thành phố của nó tức là xứ Huế. Đó là quan hệ của một cơ duyên, một tình yêu thiên định. Cái nhìn, sự khám phá mới mẻ và có tính triết lí cao của Hoàng Phủ Ngọc Tường ở đây không chỉ là dòng sông mà còn là đời sông, là cuộc đời của một người con gái của tự nhiên, không chỉ là dòng sông mà còn là vùng đất của cơ duyên, của mối tình mặn nồng, và cũng là nơi gửi gắm triết lí nhân sinh bởi vạn vật trong tự nhiên tồn tại đều mang một nét ý nghĩa đặc biệt. Nhà văn ngược về cội nguồn của sông Hương ở thượng nguồn để thấu hiểu bản chất cũng như phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông. Sông Hương trong lòng Trường Sơn” là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ qua những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng, say đắm giữa những dặm dài chói lọ màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Câu văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường trải dài nhiều vế, mỗi vế là một sắc thái, một cung bậc của bản trường ca đặc biệt của rừng già. Khúc nhạc của sông Hương ở thượng nguồn có những âm điệu mạnh mẽ, dữ dội, có những cao trào, cuộn xoáy nhưng cũng có những đoạn đắm say đầy mê hoặc. Sông Hương với những vẻ đẹp độc đáo- đối lập nhưng lại thống nhất trong một sinh thể đầy cá tính mang nét bản năng hoang sơ, hùng vĩ của đại ngàn. Với nghệ thuật so sánh độc đáo, sự kết hợp những từ láy, tính từ được dùng dày đặc, tác giả đã khắc chạm được tâm hồn đầy chân thực, tự nhiên của sông Hương ở thượng nguồn. Trong lòng Trường Sơn, sông Hương mang vẻ đẹp hoang dại, nguyên sơn, thánh thiện của tự nhiên như” một cô gái Di- gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Lối so sánh độc lạ đã tạo điểm nhấn cho sông Hương, để sông Hương hiện lên là người con gái đẹp của tự nhiên mang vẻ đẹp phóng túng, quyến rũ đến mê hoặc, đầy bí ẩn. Dòng sông mang một tâm hồn đầy cá tính mạnh mẽ song rất là thánh thiện, điềm nhiên. Nhưng khi sông Hương ra khỏi đại ngàn, nó lại mang một màu sắc đối lập, dường như ”rừng già… đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Sông Hương đã thay đổi và trưởng thành lên , tìm được cá tính thực sự của chính mình, sông Hương mang” sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ”. Sông Hương không còn là người con gái đẩy nổi loạn của núi rừng Trường Sơn nữa mà đã trở thành ”người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Dòng sông dịu dàng, lặng lẽ, miệt mài chắt chiu gom góp phù sa để mang về đồng bằng xứ Huế, để kiến tạo nên một nét văn hóa cho quê hương xứ sở. Sông Hương muốn giấu kín đi tất thảy phần bản năng hoang dại, biến đổi một cách hoàn toàn, lột xác trở thành một con người khác trước khi tìm về quá khứ” dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở của rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”. Sông Hương chủ động biến đổi lột xác để có thể hòa hợp với nét dịu dàng của xứ Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện góc nhìn đầy triết lí về sông Hương cũng như người con gái khi yêu muốn hòa hợp thì phải kiềm chế phần bản năng hoang dại, nguyên sơ để trưởng thành, để phù hợp với người yêu, với xứ Huế. Với góc nhìn mang tính lãng mạn, tinh tế đầy triết lí, sông Hương ở thượng nguồn hiện lên từ hình ảnh người con gái đầy cá tính, nổi loạn trưởng thành mang vẻ đẹp dịu dàng, trẻ trung, sẵn sàng cho hành trình tìm kiếm hạnh phúc, tìm kiếm một nửa của chính mình.
Từ góc nhìn nơi đại ngàn hùng vĩ, tác giả thu ánh mắt quan sát của mình để khắc họa hình ảnh sông Hương khi ở đồng bằng và ngoại ô thành phố. Sông Hương trong hành trình với xứ Huế” phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người con gái đẹp, nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoa đày hoa dại”. Sông Hương đã chờ đợi Huế trong một khoảng thời gian rất dài- dòng sông đầy kiên nhẫn trong cuộc tìm kiếm hạnh phúc. Huế chính là người tình mong đợi mà sông Hương tìm kiếm đến khi gặp được thỏa lòng mới ngừng hành trình tìm kiếm. Dòng sông Hương không đơn giản dễ dãi mà có những tiêu chí khắt khe chỉ Huế mới đáp ứng được. Sông Hương khi gặp Huế mang một nét đẹp hiền hòa, mềm mại, nữ tính, chảy trôi êm đềm như đang tận hưởng cảnh vật xung quanh. Với nghệ thuật nhân hóa kết hợp với liên tưởng độc đáo, câu văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường dẹp như câu chuyện cổ tích tái hiện một mối tình nhuốm màu huyền ảo. Hành trình về xuôi đầy gian nan của sông Hương được tác giả miêu tả như một “cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó”. Dòng chảy của sông Hương “ chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Bằng việc sử dụng một loạt động từ nối tiếp nhau, tác giả miêu tả sông Hương đổi dòng liên tục đẻ nhanh chóng được gặp Huế như nỗ lực rút ngắn khoảng cách với xứ Huế để thỏa lòng mong nhớ khôn nguôi. Hành trình kiếm tìm tình yêu của sông Hương là một hành trình gian truân, không đơn giản, đòi hỏi sự nỗ lực lớn nhưng rất đỗi ngọt ngào. Sông Hương còn liên tục biến đổi với những vẻ đẹp khác nhau, đem đến nhiều cái nhìn riêng biệt cho độc giả. Có lúc sông Hương hiện lên sâu lắng, tĩnh lặng, đầy bí ẩn khi” vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm”, lúc lại hấp dẫn, gợi cảm, quyến rũ, mềm mại với “ những điểm cao đột ngột như Long Cảnh, Tam Thai, Lưu Bai mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm mại như tấm lụa”, lắm khi sông Hương cũng hiện lên với vẻ đẹp đa sắc, lung linh, kì ảo khi băng qua” những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời Tây Nam thành phố sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, rồi lúc sông Hương lại mang vẻ điềm tình muôn thuở, lặng lẽ như đang ru vỗ bảo vệ giấc ngủ nghìn năm cho các vua chúa ” chảy qua những rừng thông u tịch… vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi”. Qua những biến đổi của sông Hương, ta thấy hành trình về xuôi của nó là một hành trình dài, chảy qua nhiều địa danh, mang nhiều mảng màu mới lạ song đó cũng là hành trình lãng mạn để tìm kiếm tình yêu đích thực. Sông Hương là một cô gái trẻ đầy đam mê, khát vọng hạnh phúc vượt qua trở ngại của thời gian, không gian để kiên nhẫn chờ đợi, nỗ lực biến đổi để mình trở nên hoàn thiện hơn để gặp người tình mong đợi. Hoàng Phủ Ngọc Tường phô diễn vốn hiểu biết rất uyên bác với lối hành văn mê đắm giàu cảm xúc và rất đỗi tài hoa, thể hiện góc nhìn lãng mạn gửi gắm những suy tư đầy tính triết lí.
Sông Hương khi chảy giữa lòng thành phố Huế lại mang những vẻ đẹp riêng có . Tác giả tưởng tượng cảm giác của sông Hương khi gặp thành phố yêu dấu của mình” sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những miền bãi xanh biếc”. Khi gặp được đích thực người yêu của mình, sông Hương như một cô gái vui vẻ, hạnh phúc, rạng ngời không thể che giấu. Huế trong cảm nhận đầu tiên của sông Hương là” chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”, Huế mang vẻ đẹp thanh tú, gợi cảm. Ra khỏi vùng núi, sông Hương giáp mặt thành phố “ uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến, đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Với cách so sánh độc đáo, đường cong sông Hương với “ tiếng vâng không nói ra của tình yêu” cho thấy tâm hồn tình yêu sâu thẳm của sông Hương đầy e ấp, ngượng ngùng, đắm say nhưng lại rất kín đáo, chừng mực. Một sông Hương hiện lên dịu dàng, e thẹn, đắm say trong tình yêu của mình qua đôi mắt trẻ trung , lãng mạn, đa tình của tác giả. Khi sống trong thành phố Huế, hòa quyện và trở thành một phần của xứ Huế, sông Hương như bắt trọn từng giây từng phút với nơi đây” những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố thị”, hai bờ sông” những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sần xuống những xóm thuyền xúm xít”. Sông Hương hòa hợp với đặc trưng và phong cách xứ Huế, chảy giữa lòng thành phố như thể để sống lâu hơn, sống trọn, sống sâu với xứ Huế. Sông Hương như làm tăng thêm vẻ đẹp trầm mặc, thâm nghiêm, u tịch cho thành phố ngàn năm tuổi này. Nhà văn cũng kể về lưu tốc sông Hương” trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”, dòng chảy chậm rãi, lững lờ, như “ điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Qua đoạn này, sông Hương cố tình chảy chậm lại như cố níu giữ thời gian để ở bên thành phố Huế cho thấy tình yêu xứ Huế nồng nàn, không muốn chảy , mà muốn ngưng đọng để sống lâu hơn với tình yêu của mình, để trân trọng phút giây bên nhau. Qua đây, bạn đọc cũng thấy được sự am hiểu uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường về sông Hương cùng với tài năng nghệ thuật ngôn ngữ mượt mà giàu hình ảnh để miêu tả sông Hương khi gặp Huế mang đặc điểm rất Huế.
Hành trình nào rồi cũng có điểm dừng, cuộc gặp gỡ nào rồi cũng phải đến hồi kết thúc. Sông Hương cuối cùng cũng phải rời khỏi thành phố, chia xa tình yêu của mình “sông Hương chếnh về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng Đông Tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”. Tác giả miêu tả sự quay lại gặp Huế của sông Hương như đêm tình tự của nàng Kiều, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, là tấm lòng người dân nơi Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình. Với liên tưởng bất ngờ, thú vị, sông Hương được tác giả cảm nhận với vẻ đẹp say đắm của người con gái đang yêu như nàng Kiều ngày xưa và mang phẩm chất thủy chung son sắt của người dân Châu Hóa đối với quê hương mình”. Vẻ đẹp tự nhiên của sông Hương hiện lên với những dáng vẻ khác nhau, mãnh liệt, hoang dại, đầy cá tính ở thượng nguồn, dịu dàng, mềm mại, trẻ trung đằm thắm khi về đến với Huế, lưu luyến bịn rịn nhớ thương và một lòng thủy chung son sắt khi tạm biệt Huế. Phải là một người yêu mến sông Hương, yêu mến xứ Huế thì tác giả mới viết nên những trang văn xúc động, ám ảnh bạn đọc như thế.
Mỗi dòng sông là đại diện cho một nền văn minh, là nơi lưu giữ những kí ức tươi đẹp cho vùng đất mà nó chảy qua. Sông Hương cũng vậy, nó là một dòng chảy của văn hóa, của lịch sử anh hùng nơi xứ Huế có bề dày truyền thống từ bao đời. Sông Hương chính là “người mẹ phù sa của quê hương, xứ sở” hình thành và nuôi dưỡng văn hóa, bản sắc vùng miền, là chứng nhân văn hóa lịch sử. Nhắc đến xứ Huế, người ta nhớ đến thứ nhã nhạc cung đình cổ kính, là ca Huế tinh tế nhưng gần gũi, và sông Hương cũng tự mang trong mình thứ âm nhạc ấy. Tác giả khẳng định tự bản thân sông Hương chính là dòng sông âm nhạc” Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của nước sông ấy, sông Hương đã trở thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Với nghệ thuật so sánh, sông Hương chính là một người con gái tài hoa đang gảy lên khúc nhạc riêng của đời mình- như điệu chảy chậm rãi, lửng lơ, nhẹ nhàng, sâu lắng- điệu nhạc độc đáo riêng biệt của sông Hương. Nhà văn mở rộng liên tưởng và khẳng định” toàn bộ nền âm nhạc cổ điển đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Sông Hương đã trở thành cái nôi sản sinh ra âm nhạc Huế, những giai điệu, tiết tấu, cung bậc của dòng chảy sông Hương làm những sắc điệu riêng của âm nhạc cổ điển Huế. Với vốn hiểu biết về âm nhạc đặc biệt là âm nhạc cổ điển Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khẳng định sông Hương là dòng sông âm nhạc. Sông Hương còn là dòng sông thi ca, bởi nó chính là nguồn cảm hứng bất tận không bao giờ vơi cạn đối với những nghệ sĩ để viết nên những “đứa con tinh thần” riêng biệt của mình. Trong thơ, sông Hương hiện lên với những vẻ đẹp khác nhau, lúc “xanh biếc thường ngày”, khi laị thay màu” dòng sông trắng -lá cây xanh trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà”, có lúc” từ tha thiết mơ màng nó chợt nhiên hùng tráng lên” như kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát”, rồi” từ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều lảng bảng trong hồn thơ Bà Huyện Thanh Quan”, “khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ Tố Hữu”… Chính sông Hương tự làm mới mình trong cảm hứng sáng tác của những người viết xưa và nay. Sông Hương cũng mang nét phong tục tập quán rất đặc trưng của xứ Huế và tâm hồn của người dân nơi đây. Sông Hương sát cánh với cuộc sống con người xứ Huế, từng đồng cam cộng khổ, ”tự hiến đời mình làm chiến công” chiến đấu chống quân thù cùng người dân Huế trong những năm tháng chiến tranh mưa bom bão đạn, cũng ngày ngày giúp xứ Huế bồi đắp nên những đồng bằng châu thổ màu mỡ, rộng lớn… Màu sắc của chiếc áo cưới cũng lấy cảm hứng từ màu sương khói của sông Hương tạo nên một cách rất riêng không giống với bất cứ vùng miền nào trên Tổ quốc.
Sông Hương- dòng sông lịch sử, dòng sông anh hùng. Tác giả kể về sông Hương qua các thời đại. Từ thời các vua Hùng, nó chỉ là một dòng sông” biên thùy xa xôi” cho đến thời trung đại nó là ”dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam… soi bóng kinh thành Phú Xuân của anh hùng Nguyễn Huệ, nó sống hết lích sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa”, rồi thời hiện đại, “dòng sông với những chiến công rung chuyển trong Cách mạng tháng Tám, dòng sông gắn với những đau thương, mất mát”. Tác giả sử dụng thủ pháp liệt kê để người đọc hình dung dòng sông qua các thời đại đặc biệt tác giả chú ý khắc họa về dòng sông anh dùng để bộc lộ niềm tự hào của người Huế đối với sông Hương. Như vậy, nhà văn khám phá sông Hương trên cả ba phương diện: dòng sông tự nhiên, dòng sông văn hóa, dòng sông lịch sử. Ở phương diện nào, tác giả cũng nhấn mạnh mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa sông Hương với xứ Huế để từ đó khẳng định một cách chắc nịch “ Sông Hương là dòng sông thuộc về một thành phố duy nhất”- đó là thành phố Huế mà thôi.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc họa bức chân dung đa chiều của sông Hương một cách thật sinh động, hấp dẫn, từ những góc độ khác nhau, sông Hương mang những vẻ đẹp riêng có, độc đáo của mình. Bằng vốn hiểu biết vô cùng phong phú trong các lĩnh vực địa lí, triết học, lịch sử… cùng sự kết hợp nhuần nhuyễn các biện pháp tu từ , hành văn ngôn ngữ nhẹ nhàng, giàu sức biểu đạt, tác giả đã tô vẽ một sông Hương khắc cốt ghi tâm trong lòng độc giả, khiến cho ai chưa đến thăm nơi này cũng phải thốt lên trước vẻ đẹp của nó. Và ẩn đằng sau hình tượng sông Hương ấy , nhà văn cũng bày tỏ cái tôi tác giả của mình: đó là một cái tôi mê đắm tài hoa cảnh sắc quê hương đất nước, cái tôi uyên bác, giàu tri thức về lịch sử, văn hóa, địa lí…, cái tôi yêu quê, gắn bó một lòng sâu nặng với xứ sở đã sinh ra và nuôi dưỡng mình – xứ Huế mộng mơ.
Sông Hương không chỉ là một dòng sông địa lý mà còn là một biểu tượng văn hóa, một phần hồn của người Huế. Qua ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, chúng ta đã khám phá được vẻ đẹp đa dạng và sâu sắc của dòng sông này. Tác phẩm không chỉ là một bài học về văn hóa, lịch sử mà còn là một nguồn cảm hứng vô tận cho những ai yêu mến văn chương. Hãy cùng gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa mà dòng sông Hương mang lại.
4. Những nhận định về tác giả và tác phẩm:
“Bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cuộc đi tìm cội nguồn, một sự phát hiện bề dày văn hoá và lịch sử của các điều kiện đời sống… Văn anh giàu những tư liệu lấy từ sử sách tri thức khoa học và huyền thoại kí ức cá nhân loé lên những ánh sáng bất ngờ… Cái mới của Hoàng Phủ Ngọc Tường là khám phá bình diện văn hoá với tư liệu lịch sử phong phú và một tâm hồn Huế nồng nàn”.
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử từng nhận định về Hoàng Phủ Ngọc Tường và “Ai đã đặt tên cho dòng sông”
Hoàng Cát cũng từng có những nhận định về Hoàng Phủ Ngọc Tường : “Hoàng Phủ Ngọc Tường luôn hiện lên là một nhà văn hoá hành văn vô cùng độc đáo, một cuốn từ điển sống về Huế” .
Có thể nói Hoàng Phủ Ngọc Tường và “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã trở thành một trong những dấu ấn khó phai trong nền văn học Việt Nam. Đi cùng thời gian, người đọc vẫn sẽ mãi nhớ về người nghệ sĩ một lòng với Huế cùng người con gái Hương giang lúc dữ dội, man dại, lúc lại đằm thắm, trữ tình, nhẹ nhàng.
THAM KHẢO THÊM: