Cầm cố tài sản, mượn tài sản nhưng thanh toán theo hạn xử lý thế nào? Trách nhiệm pháp lý đối với hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Cầm cố tài sản, mượn tài sản nhưng thanh toán theo hạn xử lý thế nào? Trách nhiệm pháp lý đối với hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Tóm tắt câu hỏi:
Xin chào văn phòng luật sư. Gia đình tôi kinh doanh cầm đồ có đầy đủ giấy phép điều kiện kinh doanh. Nay gặp chút thắc mắc về pháp luật mong công ty tư vấn. Qua người quen và cũng là chị gái của trang đang thuê nhà của tôi. Tháng 02/2013 tôi có cầm cho khách hàng tên Trang 2 xe ô tô. Trong đó có 1 xe đăng ký công ty ( đang mua trả góp ngân hàng) và 1 xe cá nhân có đăng ký. Có biên nhận cầm đồ và hứa sẽ bồi sung đăng ký xe công ty sau. Tháng 03/2013 Trang và chồng tên Sứ có mượn 1 xe cá nhân về sử dụng, (có ghi biên nhận viết tay mượn xe sử dụng mang tên chồng Trang), xe công ty vẫn giữ lại tới nay. Sau đó có đóng lãi duy trì được 4 tháng thì họ thông báo gặp khó khăn trong kinh doanh nên xin nợ lãi và thanh lý 2 xe trả nợ. Do công ty ngoài Đắk Nông nên 01/2014 tôi mới liên lạc được để thanh lý xe, nhưng hẹn lần lượt mãi không giao xe đã mượn và giấy tờ xe công ty để thanh lý, gần đây tôi được biết là Trang đã bán xe cá nhân mượn về sử dụng, hỏi thì nói bị siết nợ. Xe công ty thì vẫn chưa giải ngân xong và đang nợ lãi ngân hàng. Công ty đang nợ thuế và đã khoá mã số thuế và hoá đơn. Xin hỏi bây giờ xe đăng kí công ty kia giờ bên ngân hàng sẽ xử lí như nào và tôi có thể khởi kiện, thủ tục và trình tự ra sao do Trang đã không còn tại địa phương. Mong công ty tư vấn trình tự pháp luật để tôi có thể lấy lại tài sản trên tinh thần tôn trọng pháp luật?
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Cơ sở pháp lý:
– Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung 2009
2. Giải quyết vấn đề:
Trước hết, trong trường hợp của gia đình bạn với gia đình vợ chồng chị Trang hợp đồng giữa hai bên theo quy định của Bộ Luật Dân sự 2005 thì được xác định là hợp đồng cầm cố tài sản. Trong loại hợp đồng này thì quyền của bên nhân cầm cố được quy định tại Điều 333 về quyền của bên nhận cầm cố tài sản như sau:
“Bên nhận cầm cố tài sản có các quyền sau đây:
1. Yêu cầu người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật tài sản cầm cố trả lại tài sản đó;
2. Yêu cầu xử lý tài sản cầm cố theo phương thức đã thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật để thực hiện nghĩa vụ;
3. Được khai thác công dụng tài sản cầm cố và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm cố, nếu có thoả thuận;
4. Được thanh toán chi phí hợp lý bảo quản tài sản cầm cố khi trả lại tài sản cho bên cầm cố.Xem xét trong trường hợp bạn nói thì công ty của vợ chồng Trang Sứ đang rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán”.
Như vậy, theo khoản 2, Điều 333, Bộ luật dân sự thì bên nhân cầm cố có thể xử lý tài sản theo những phương thức do hai bên thỏa thuận trong hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 336, Bộ luật dân sự 2005 đã ghi nhận về việc xử lý tài sản cầm cố như sau:
“Trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện nghĩa vụ không đúng thoả thuận thì tài sản cầm cố được xử lý theo phương thức do các bên đã thoả thuận hoặc được bán đấu giá theo quy định của pháp luật để thực hiện nghĩa vụ. Bên nhận cầm cố được ưu tiên thanh toán từ số tiền bán tài sản cầm cố”.
Như vậy, do bạn và bên vợ chồng chị Trang đã có thỏa thuận với nhau cho nên dù công ty chị Trang có xảy ra chuyện gì thì tài sản là chiếc xe cũng được xử lý theo hơp đồng hai bên thỏa thuận. Trong trường hợp muốn đòi lại tài sản bạn có thể gửi yêu cầu tới tòa án nhân dân để có thể được giải quyết yêu cầu đòi tài sản.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật về vấn đề cầm cố tài sản: 1900.6568
Ngoài tất cả những điều trên liên quan đến dân sự, thì trong vụ việc của bạn nếu nhận thấy có dấu hiệu lừa đảo thì sẽ không còn mang tính chất dân sự nữa mà ở đây liên quan đến hình sự. Theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:
“1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ trên năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
đ) Tái phạm nguy hiểm;
e) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này”.
Theo Điểm b, Khoản 2, Điều 1 Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung 2009 quy định : "Sửa đổi cụm từ “một triệu đồng” thành cụm từ “bốn triệu đồng” tại khoản 1 và bỏ từ “trên” tại điểm d khoản 2 Điều 140; ".
Trước hết, cần xem xét hành vi cấu thành của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản :
– Hành vi: bao gồm các giai đoạn:
+) Người phạm tội có được tài sản một cách hợp pháp thông qua hợp đồng vay, mượn, thuê tài sản hoặc hợp đồng khác. Cụ thể trong trường hợp của bạn, vợ chồng Trang có được tài sản của bạn thông qua một hợp đồng là hợp đồng cầm cố tài sản và mượn tài sản.
+) Sau khi có được tài sản, người phạm tội không thực hiện như cam kết trong hợp đồng, sử dụng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản. Khi không còn khả năng trả nợ, rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán hiện tại vợ chồng Trang đều đã đi khỏi nơi cư trú, không liên lạc được.
– Hậu quả: người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản, hoặc đã bỏ trốn, hoặc không còn khả năng trả lại tài sản.
Người phạm tội chiếm đoạt được tài sản có giá trị từ 4 triệu đồng trở lên, nếu tài sản có giá trị dưới 4 triệu đồng thì phải kèm theo điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích mà còn vi phạm mới thì mới cấu thành tội phạm .
Khi bạn nhận thấy những hành vi của vợ chồng Trang đáp ứng những yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại Điều 140, bạn có thể làm đơn tố cáo hành vi vi phạm pháp luật hình sự của vợ chồng Trang lên cơ quan điều tra có thẩm quyền để được xác minh, kiểm tra lấy lại được tài sản và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với vợ chồng Trang.