Cải tạo không giam giữ là một hình phạt trong Bộ luật Hình sự, áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng và không cần cách ly khỏi xã hội. Người bị phạt vẫn được làm việc, sinh sống tại địa phương nhưng phải chịu sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương. Bài viết dưới đây sẽ phân tích chi tiết hơn về hình phạt này.
Mục lục bài viết
1. Khái quát chung về hình phạt cải tạo không giam giữ:
1.1. Hình phạt cải tạo không giam giữ là gì?
Hình phạt cải tạo không giam giữ được quy định trong Bộ luật Hình sự Việt Nam, thể hiện quan điểm nhân đạo và chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội, đồng thời chứng tỏ khả năng tự giáo dục cải tạo trở thành người có ích cho xã hội của họ. Đó là một trong những biện pháp nhằm cải thiện hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống, giáo dục, cảm hóa và cải tạo người phạm tội để giúp họ sớm cải tạo tái hòa nhập cộng đồng.
Hình phạt cải tạo không giam giữ được đề cập đến lần đầu tiên trong Luật Nghĩa vụ quân sự được Quốc Hội thông qua ngày 30 tháng 12 năm 1981. Khoản 1 Điều 69 Luật này quy định như sau: Người nào đang ở lứa tuổi làm nghĩa vụ quân sự mà không chấp hành đúng những quy định về đăng ký nghĩa vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, lệnh gọi tập trung huấn luyện thì tùy từng mức độ nặng/nhẹ mà bị xử lý bằng biện pháp hành chính, bị phạt cải tạo không giam giữ từ 3 tháng đến 2 năm hoặc bị phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm.
Kế thừa các văn bản pháp luật trước đó, Điều 36 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về hình phạt cải tạo không giam giữ. Theo đó: Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật Hình sự quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội. Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ.
Ngoài ra, trong giáo trình Luật hình sự Việt Nam của trường Học viện Tư pháp đã chỉ ra: Đây là một loại hình phạt không tước đi sự tự do của người bị kết án mà họ được cải tạo ngoài xã hội với sự giám sát giáo dục và giúp đỡ của gia đình, cơ quan, tổ chức xã hội và cộng đồng từ 6 tháng đến 3 năm.
Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra quan điểm về hình phạt cải tạo không giam giữ như sau:
“Hình phạt cải tạo không giam giữ là một trong những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do pháp luật hình sự Việt Nam quy định, người bị kết án không bị cách ly khỏi xã hội mà được giao cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục, trong trường hợp họ phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng và tòa án xét thấy không cần thiết phải cách ly cá nhân đó ra khỏi xã hội cũng đủ để giáo dục và cải tạo họ trở thành người tốt.”
1.2. Đặc điểm của hình phạt cải tạo không giam giữ:
Cải tạo không giam giữ là một trong những loại hình phạt chính theo quy định tại điều 32 Bộ luật Hình sự năm 2015. Đây là một loại hình phạt trong hệ thống hình phạt, do đó cải tạo không giam giữ bao những đặc điểm chung như sau:
- Thứ nhất, đây là biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc nhất so với tất cả các biện pháp cưỡng chế hình sự khác của Nhà nước mà việc áp dụng nó đối với người bị kết án sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý là người đó bị coi là “có án tích”.
- Thứ hai, hình phạt này do một cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự đó là Tòa án áp dụng và chỉ áp dụng đối với người bị kết án trong bản án có hiệu lực pháp luật.
- Thứ ba, hình phạt này chỉ được quy định trong bộ luật hình sự hiện hành, được tòa án áp dụng theo một trình tự đặc biệt do pháp luật tố tụng hình sự quy định đối với riêng người bị kết án.
Bên cạnh đó, cải tạo không giam giữ còn mang những đặc điểm riêng giúp phân biệt hình phạt cải tạo không giam giữ với các hình phạt khác. Cụ thể như sau:
- Thứ nhất, hình phạt cải tạo không giam giữ là một trong những hình phạt phản ánh nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và của pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng. Bên cạnh hàng loạt các chế định khác như: Trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự… thì việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ kết hợp nhuần nhuyễn, phát huy hiệu quả cao giữa chừng trị và cải tạo giáo dục. Bản chất của hình phạt vẫn là sự hạn chế tự do thể hiện ở việc người bị kết án dù được cải tạo, giáo dục tại địa phương nhưng tự bản thân họ luôn biết rằng mọi việc họ làm đều bị theo dõi và giám sát bởi cơ quan chức năng, không được hoàn toàn tự do như bình thường.
- Thứ hai, trong số các hình phạt không phạt tù, hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt chính nặng nhất, hình phạt này chỉ đứng sau hình phạt tù có thời hạn, các trường hợp phạm tội bị áp dụng hình phạt này khi mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi không lớn hoặc chưa đến mức phải chịu hình phạt tù.
- Thứ ba, hình phạt cải tạo không giam giữ buộc người bị kết án phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội. Người bị kết án được thi hành án trong môi trường bình thường trước sự giám sát và giáo dục của chính quyền địa phương, cơ quan tổ chức. Việc quy định và áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam đối với những người bị kết án, mặc dù họ đã thực hiện hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội. Người phạm tội phải tự ý thức được việc cải tạo mình, tự sửa chữa bản thân và chấp hành đầy đủ nghiêm chỉnh đường lối chính sách của pháp luật, của nhà nước, tích cực tham gia lao động, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân, quy định của địa bàn dân cư nơi họ cư trú.
- Thứ tư, khi bị tuyên cải tạo không giam giữ thì người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về cải tạo không giam giữ, đồng thời bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ Nhà nước.
1.3. Vai trò của hình phạt cải tạo không giam giữ:
Thứ nhất, so với bản chất pháp lý của hình phạt tù thì hình phạt cải tạo không giam giữ mang 1 đặc điểm nổi bật đó là tính hạn chế tự do của người bị kết án. Nếu như hình phạt tù trước bỏ tự do của người bị kết án thì hình phạt cải tạo không giam giữ chỉ hạn chế sự tự do của họ. Người bị kết án có thể tự lao động cải tạo và sửa chữa lỗi lầm trong môi trường sinh hoạt, làm việc của mình mà không cần cách ly khỏi xã hội. Hơn nữa, khác với hình phạt tù, việc thi hành án cải tạo không giam giữ không phải được giao cho một cơ quan chuyên trách thực hiện mà thẩm quyền giám sát giáo dục đối với người bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thuộc về nhà nước hoặc tổ chức xã hội nơi người bị kết án cư trú hoặc lao động sản xuất. Sự quan tâm phối hợp giữa các cơ quan tổ chức, cơ quan chức năng có thẩm quyền, gia đình của người bị kết án cải tạo không giam giữ chính là điều cần thiết nhất để tạo ra hiệu quả của hình phạt này.
Thứ hai, so với các hình phạt không phải phạt tù như hình phạt quản chế, cảnh cáo: Quản chế là hình phạt bổ sung và chỉ được áp dụng kèm theo một hình phạt chính. Vì vậy về bản chất pháp lý thì hình phạt này khác hẳn so với hình phạt cải tạo không giam giữ. Nó được duy trì và phát triển nhằm làm đa dạng hóa các biện pháp xử lý hình sự, tạo hiệu quả cao trong công tác phòng ngừa tội phạm và đem lại công bằng xã hội. Hình phạt này áp dụng đối với những người phạm tội nguy hiểm như: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia, những người tái phạm nguy hiểm… Con cảnh cáo là hình phạt chính nhẹ nhất trong hệ thống hình phạt, được áp dụng với những người phạm tội ít nghiêm trọng có nhiều tình tiết giảm nhẹ nhưng chưa đến mức miễn hình phạt. Tính chồng chị của hình phạt này hầu như không thể hiện. Tuy nhiên tính giáo dục và cải tạo thể hiện rất rõ nét thông qua việc sau bản án do Tòa án buộc tội, người bị kết án có án tích trong thời gian 01 năm kể từ ngày bản án có hiệu lực theo quy định tại điều 70 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Thứ ba, hình phạt cải tạo không giam giữ và chế định án treo có sự khác nhau về bản chất pháp lý: Cải tạo không giam giữ là hình phạt chính, người bị kết án bị tòa án quyết định hình phạt đó là cải tạo không giam giữ. Khi bị tuyên cải tạo không giam giữ thì người bị kết án phải thực hiện 1 số nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và bị khấu trừ 1 phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ Nhà nước. Trong khi đó, án treo lại là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt tù khi đắp ứng được đầy đủ điều kiện theo quy định của pháp luật. Người được hưởng án treo có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc thực hiện các công việc nhất định theo quy định tại điều 65 bộ luật hình sự năm 2015. Mặc dù vậy, về nội dung thì cả cải tạo không giam giữ và án treo đều giáo dục cải tạo người bị kết án nhưng không cách ly họ khỏi đời sống xã hội, cơ quan có thẩm quyền giám sát người bị kết án là tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú.
Trong hệ thống hình phạt nói chung cũng như so sánh với các biện pháp pháp lý khác nhau, hình phạt cải tạo không giam giữ được coi là 01 hình phạt phát huy được hiệu quả giáo dục cải tạo của người bị kết án, đem đến sự linh hoạt trong xử lý hình sự cho các cơ quan tiến hành tố tụng mà cụ thể là Tòa án. Hình phạt cải tạo không giam giữ đã tạo ra sự kết nối phù hợp giữa hình phạt tù và các hình phạt không phải hình phạt tù, từ đó làm đa dạng hóa tính chất của hình phạt và làm cho hiệu quả của hình phạt này được phát huy cao nhất.
2. Ví dụ về hình phạt cải tạo không giam giữ:
Bản án về tội đánh bạc số 01/2022/HS-ST ngày 20 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ đã áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo. cụ thể như sau:
Khoảng gần 17 giờ ngày 15/12/2021, tại khu Trung Lợi, xã Nga Hoàng, huyện Yên Lập, Trịnh Thị Q có hành vi đánh bạc dưới hình thức ghi số lô, số đề cho Hoàng Văn Th với số tiền là 4.005.000 đồng; ghi số lô cho Đinh Công Th với số tiền đánh bạc là 1.310.000 đồng; ghi số đề cho một số người không rõ tên, tuổi, địa chỉ với số tiền là 30.000 đồng. Tổng số tiền dùng để đánh bạc là 5.345.000 đồng.Hành vi nêu trên của bị cáo đã bị Viện Kiểm sát nhân dân huyện Yên Lập truy tố về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 điều 321 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội đúng pháp luật.
Tuy nhiên, hành vi phạm tội của bị cáo tuy thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, lần phạm tội này là lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Vì vậy, không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội mà chỉ cần áp dụng một hình phạt cải tạo không giam giữ và giao bị cáo cho gia đình, Ủy ban nhân dân xã nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục cũng đủ để cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt.
Quyết định của Tòa án:
- Trịnh Thị Q 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Được trừ 03 ngày tạm giữ (15/12/2021 đến ngày 18/12/2021), quy đổi thành 09 ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành 11 (Mười một) tháng 21 (Hai mươi mốt) ngày cải tạo không giam giữ.
- Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan được giao giám sát, giáo dục, bị cáo nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.
- Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã Nga Hoàng, huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ giám sát, giáo dục trong thời gian các bị cáo chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ.
- Khấu trừ 05% thu nhập của bị cáo số tiền là 150.000đ(Một trăm năm mươi nghìn đồng)/ tháng, trong thời gian bị cáo chấp hành án để sung quỹ nhà nước. Việc khấu trừ thu nhập được thực hiện hàng tháng.
3. Các trường hợp nào được miễn cải tạo không giam giữ?
Theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 62 Bộ luật Hình sự năm 2015, người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn đến 03 năm chưa chấp hành hình phạt thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Sau khi bị kết án đã lập công: Đây là quy định mang tính khuyến khích cải tạo và chuộc lỗi. Người phạm tội nếu sau khi bị kết án đã có hành động tích cực, đóng góp cho xã hội, cơ quan Nhà nước hoặc giúp đỡ cơ quan có thẩm quyền trong đấu tranh phòng chống tội phạm… thì có thể được xem xét miễn chấp hành hình phạt. Quy định này nhằm ghi nhận nỗ lực khắc phục hậu quả và tạo động lực cho người phạm tội hướng thiện, thể hiện tính nhân văn và tính khuyến khích tái hòa nhập xã hội.
- Mắc bệnh hiểm nghèo: Đây là biểu hiện rõ nét của tính nhân đạo trong chính sách hình sự. Khi người bị kết án mắc bệnh hiểm nghèo, việc buộc họ tiếp tục chấp hành hình phạt không còn nhiều ý nghĩa về mặt giáo dục hay phòng ngừa, thậm chí có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và tính mạng. Vì vậy, miễn chấp hành hình phạt trong trường hợp này vừa thể hiện sự tôn trọng quyền con người vừa phù hợp với thực tế khách quan.
- Chấp hành tốt pháp luật, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa: Quy định này hướng tới mục tiêu giáo dục và cải tạo người phạm tội, thay vì chỉ trừng phạt. Khi người bị kết án thể hiện sự ăn năn, tuân thủ pháp luật, đồng thời có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (ví dụ là lao động chính trong gia đình, nuôi con nhỏ, người thân bị bệnh nặng…) thì việc cho miễn chấp hành hình phạt là hợp lý và thể hiện sự linh hoạt, nhân văn trong áp dụng pháp luật hình sự.
Cả 03 trường hợp được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 62 Bộ luật Hình sự năm 2015 về miễn chấp hành hình phạt thể hiện rõ chính sách nhân đạo, khoan hồng và linh hoạt của pháp luật hình sự Việt Nam.
THAM KHẢO THÊM:

Tư vấn pháp luật qua Zalo


