Cải cách hành chính là gì? Thực trạng cải cách hành chính ở Việt Nam? Giải pháp cải cách hành chính ở Việt Nam?
Cơ sở để thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế, phát huy dân chủ và nâng cao đời sống cho người dân của một nước không thể thiếu được cải cách hành chính. Do đó, ở nước ta cũng luôn coi đây là mục tiêu và nhiệm vụ cơ bản nhất, thúc đẩy công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng và phát triển đất nước.
Luật sư
Mục lục bài viết
1. Cải cách hành chính là gì?
Cải cách hành chính (CCHC) là một trong những nội dung chủ yếu của khoa học hành chính, không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn mang tính thực tiễn cao.
Bộ máy hành chính nhà nước là một bộ phận không tách rời khỏi bộ máy nhà nước nói riêng và hệ thống chính trị của một quốc gia nói chung, nên nó chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các yếu tố chính trị, yếu tố kinh tế – xã hội, cũng như mang tính đặc trưng khác của mỗi quốc gia như truyền thống văn hóa, lịch sử hình thành và phát triển… CCHC ở các nước khác nhau nên cũng mang sắc thái riêng, được tiến hành trên những cấp độ khác nhau, ở nội dung khác nhau. Ở Việt Nam, CCHC được xác định là một bộ phận quan trọng của công cuộc đổi mới, là trọng tâm của tiến trình cải cách nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trên cơ sở khái niệm cải cách, đã có nhiều khái niệm về cải cách hành chính được đưa ra như sau:
– “Cải cách hành chính có thể hiểu là một quá trình thay đổi cơ bản, lâu dài, liên tục bao gồm cơ cấu của quyền lực hành pháp và tất cả các hoạt động có ý thức của bộ máy nhà nước nhằm đạt được sự hợp tác giữa các bộ phận và các cá nhân vì mục đích chung của cộng đồng và phối hợp các nguồn lực để tạo ra hiệu lực và hiệu quả quản lý và chất lượng các sản phẩm (dịch vụ hoặc hàng hoá) phục vụ nhân dân thông qua các phương thức tổ chức và thực hiện quyền lực. Hiểu theo nghĩa này, cải cách hành chính là những thay đổi được thiết kế có chủ định nhằm cải tiến một cách cơ bản các khâu trong hoạt động quản lý của bộ máy nhà nước từ việc: lập kế hoạch; định thể chế; tổ chức; công tác cán bộ; tài chính; chỉ huy; phối hợp; kiểm tra; thông tin; và đánh giá. Cũng có thể hiểu cải cách hành chính là một quá trình thay đổi nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hành chính, cải tiến tổ chức, chế độ và phương pháp hành chính cũ, xây dựng chế độ và phương thức hành chính mới trong lĩnh vực quản lý của bộ máy hành chính nhà nước”
– Một số tác giả khác lại nhấn mạnh việc nâng cao hiệu suất, cải tiến chế độ và phương thức hành chính cũ, xây dựng chế độ và phương thức hành chính mới. Họ cho rằng: “cải cách hành chính là quá trình lâu dài và liên tục nhằm nâng cao hiệu suất hành chính, cải tiến chế độ và phương thức hành chính cũ, xây dựng chế độ và phương thức hành chính mới trong phạm vi quản lý của hệ thống các cơ quan thực thi quyền hành pháp cũng như tất cả các hoạt động có ý thức của bộ máy nhà nước”
– Khi đi sâu nghiên cứu về nội dung cải cách nền hành chính, một số tác giả cho rằng: “cải cách hành chính đề cập đến những thay đổi trong toàn bộ hệ thống hành chính công, nó bao gồm toàn bộ việc tổ chức lại các bộ, xác định nhiệm vụ và chức năng của các đơn vị hành chính, cải tiến các phương thức và thủ tục, đào tạo cán bộ…; Cải tiến sự phối hợp ở cấp cao hơn của chính phủ. Mọi sự cải tiến cơ cấu, thủ tục, năng lực và động cơ của cán bộ với mực đích nâng cao năng lực quản lý và tổ chức của các tổ chức công cũng được xem là cải cách hành chính theo nghĩa này”
– Trong Từ điển hành chính, “Cải cách hành chính là hệ thống những chủ trương, biện pháp tiến hành những sửa đổi, cải tiến mang tính cơ bản và có hệ thống nền hành chính nhà nước (hay còn gọi là nền hành chính công, nền hành chính quốc gia) về các mặt: Thể chế, cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động, chế độ công vụ, quy chế công chức, năng lực, trình độ, phẩm chất phục vụ của đội ngũ công chức làm việc trong bộ máy đó”
Cải cách hành chính là một sự thay đổi có kế hoạch, theo một mục tiêu nhất định, được xác định bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cải cách hành chính không làm thay đổi bản chất của hệ thống hành chính, mà chỉ làm cho hệ thống này trở nên hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân được tốt hơn; các thể chế quản lý nhà nước đồng bộ, khả thi, đi vào cuộc sống hơn; cơ chế hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của bộ máy, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính hiệu quả, hiệu lực hơn, đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế – xã hội của một quốc gia.
Từ các khái niệm và cách nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau có thể tổng kết lại như sau: Cải cách hành chính là quá trình cải biến có kế hoạch cụ thể để đạt mục tiêu hoàn thiện một hay một số nội dung của nền hành chính nhà nước (thể chế, cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức…) nhằm xây dựng nền hành chính công đáp ứng yêu cầu của một nền hành chính hiệu lực, hiệu quả và hiện đại.
Nội dung cải cách hành chính ở Việt Nam bao gồm:
– Cải cách thể chế hành chính nhà nước.
– Cải cách thủ tục hành chính (TTHC).
– Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước.
– Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
– Cải cách tài chính công
2. Thực trạng cải cách hành chính ở Việt Nam:
Những năm qua, Nhà nước đã chú trọng đổi mới và nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ hành chính công, coi đó là một khâu quan trọng trong thực hiện chương trình cải cách nền hành chính nhà nước theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp.
Nhiều nơi đã áp dụng các phương tiện kỹ thuật điện tử, tin học hiện đại để nâng cao chất lượng dịch vụ công, như cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cấp phép đầu tư, cấp đăng ký xe máy, chứng minh thư nhân dân…; tổ chức đấu thầu các dự án chi tiêu công; rà soát để loại bỏ những thủ tục hành chính (TTHC) không cần thiết, các giấy phép còn gây phiền hà cho người dân khi tiếp cận dịch vụ hành chính công (DVHCC), rút ngắn thời gian cung ứng dịch vụ…, đặc biệt là sáp nhập các đơn vị hành chính theo hướng tinh gọn, ví dụ như việc tinh giản biên chế tại các cơ quan hành chính nhà nước và sáp nhập một số cơ quan hành chính tại Bộ Công thương.
Trên phương diện TTHC, Bộ Công Thương đã tiến hành liên tục các đợt tinh lọc, cắt giảm và được thực hiện vào tháng 12/2016, theo Quyết định số 4846/QĐ- BCT ngày 09/12/2016 của Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành phê duyệt phương án tổng thể đơn giản hóa TTHC trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Công Thương. Năm 2017, đã có 123 TTHC được đơn giản hóa, bãi bỏ (gồm bãi bỏ 15 thủ tục và đơn giản hóa 108 thủ tục) trong tổng số 443 TTHC thuộc phạm vi Bộ quản lý1.
Tiếp đó, ngày 20/9/2017, Bộ Công Thương ban hành Quyết định số 3610a/QĐ-BCT đưa ra phương án cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện đầu tư, kinh doanh thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Công Thương giai đoạn 2017 – 2018. Quyết định này được ban hành để thực hiện vượt mục tiêu đã đề ra khi cắt giảm và đơn giản hóa tới 183 thủ tục (trong đó cắt giảm 49 thủ tục, đơn giản hóa 134 thủ tục) trong tổng số 451 thủ tục hiện có của Bộ tại thời điểm năm 2017. Bên cạnh đó, Bộ cũng cắt giảm, đơn giản hóa 55,5% điều kiện trên tổng số các điều kiện đầu tư kinh doanh trong 16 ngành, nghề thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Công Thương (theo Luật Đầu tư)2.
Khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, hành chính nhà nước đang thực hiện chuyển chức năng quản lý nhà nước sang các hình thức hoạt động cung cấp dịch vụ công. Mặt khác, trong quá trình chuyển đổi, sự kết hợp giữa Nhà nước với các thành phần kinh tế trong hoạt động cung cấp dịch vụ diễn ra phổ biến. Hoạt động cung cấp dịch vụ thu phí vốn nằm trong tay Nhà nước đang được chuyển dịch dần sang khu vực tư (ví dụ như hoạt động của các văn phòng công chứng tư), Nhà nước chỉ đóng vai trò xúc tiến.
Trong điều kiện chung hiện nay, hoạt động cung cấp dịch vụ công đang được Nhà nước thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau. Các cơ quan hành chính nhà nước chỉ tập trung vào những loại hàng hóa và dịch vụ mà xã hội cần nhưng thiếu người cung cấp hoặc không muốn cung cấp và trong nhiều trường hợp cung cấp không hiệu quả.
Cùng với sự phát triển của xã hội, chức năng cung cấp dịch vụ công từ phía cơ quan nhà nước ngày càng trở nên quan trọng. Trong nền kinh tế thị trường, việc cung cấp dịch vụ công thỏa mãn nhu cầu của người dân không chỉ do Nhà nước đảm nhiệm, mà dần dần được xã hội hóa với vai trò tham gia của các thành phần kinh tế khác dưới sự kiểm soát của Nhà nước. Về mặt nguyên tắc, Nhà nước không nhất thiết phải trực tiếp cung cấp các dịch vụ công mà có trách nhiệm bảo đảm rằng các dịch vụ đó được cung cấp trên thực tế.
Song hành với những cải cách về kinh tế và những đổi mới quan trọng trong hệ thống chính trị thì vấn đề CCHC luôn được Đảng và Nhà nước ta xác định là một khâu quan trọng mang tính đột phá, nhằm thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng nền hành chính công vững mạnh, chuyên nghiệp hóa, muốn đạt được mục tiêu đó phải cải cách nền hành chính quốc gia. Điều này được phản ánh khá rõ nét qua việc triển khai Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011 – 2020 với những nội dung cơ bản: từ cải cách thể chế, tổ chức bộ máy hành chính, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đến cải cách tài chính công và hiện đại hóa nền hành chính công.
Tuy nhiên, DVHCC Việt Nam cũng còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập, đó là:
– DVHCC hoạt động kém hiệu quả do chịu sự cản trở và tác động của chính các yếu tố của bộ máy quan liêu chậm được đổi mới, chẳng hạn: TTHC phức tạp, phiền hà; quy trình cung ứng dịch vụ qua nhiều tầng nấc, phòng, ban, các quy trình khác nhau; sự cửa quyền, nhũng nhiễu, quan liêu của những người trực tiếp cung ứng dịch vụ…3.
– Các thông tin cần thiết về thủ tục cũng như cách thức và quy trình thực hiện DVHCC, các thông tin về quy hoạch, đất đai, tài nguyên… chưa được công khai rõ ràng, minh bạch, do đó dễ bị những người cung ứng dịch vụ lợi dụng để sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà. Các đơn vị, tổ chức và người dân chưa thực sự dễ dàng, thuận tiện khi tiếp cận các thông tin trên và tiếp cận DVHCC.
– Các văn bản quy phạm pháp luật quy định về TTHC của các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương còn quá rườm rà, phức tạp và chồng chéo. Có đến 72% doanh nghiệp FDI cho biết, năm 2016, họ mất hơn 5% quỹ thời gian để thực hiện các thủ tục hành chính. Tỷ lệ này cũng cao đáng kể so với con số 56% trong điều tra PCI năm 2010. Đáng chú ý, tỷ lệ này ở tất cả các tỉnh không có sự khác biệt lớn, đều rơi vào khoảng 70%. Các doanh nghiệp FDI cho biết, tiếp nhận khoảng 2 cuộc thanh kiểm tra mỗi năm. Hơn 95% doanh nghiệp FDI bị thanh kiểm tra dưới 8 lần; một số doanh nghiệp bị thanh kiểm tra hơn 8 lần/năm. Thủ tục phiền hà nhất mà các doanh nghiệp FDI cho biết, đó là thuế (liên quan đến hóa đơn thuế GTGT), bảo hiểm xã hội và thủ tục thông quan hàng hóa.
Hiện nay, sự phức tạp, rườm rà, thậm chí chồng chéo của các TTHC trong lĩnh vực đầu tư xây dựng đang tạo nên gánh nặng rất lớn cho các doanh nghiệp, cũng như làm mất cơ hội đầu tư, gây rủi ro cho doanh nghiệp. Ví như, xin thẩm định 1 dự án đầu tư xây dựng tại địa phương, doanh nghiệp phải làm việc đồng thời với sở Xây dựng, sở Tài nguyên và Môi trường, sở Quy hoạch – Kiến trúc, UBND tỉnh, thành phố (tổng cộng với 4 – 5 cơ quan một cách độc lập, không có một cửa thống nhất, một đầu mối giải quyết).
– Sự phân công, phân cấp trong việc cung ứng dịch vụ công chưa thực sự được đẩy mạnh theo hướng “một công việc chỉ do một cơ quan giải quyết” và chịu trách nhiệm mà vẫn còn tình trạng cấp trên ôm đồm, chưa muốn giao quyền hoặc chưa tin tưởng vào khả năng giải quyết công việc của cấp dưới.
– Tình trạng bất bình đẳng, phân biệt đối xử trong việc tiếp cận DVHCC còn khá phổ biến: doanh nghiệp nhà nước được ưu ái hơn so với doanh nghiệp ngoài quốc doanh; người có chức quyền hoặc thân quen dễ tiếp cận các dịch vụ hơn người dân bình thường…
– Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của người cung ứng dịch vụ còn nhiều bất cập, hạn chế; đạo đức của một bộ phận cán bộ, công chức nhất là người trực tiếp giải quyết các nhu cầu về DVHCC có biểu hiện sa sút, biến chất; kỷ luật, kỷ cương công vụ chưa được thực hiện nghiêm túc.
3. Giải pháp cải cách hành chính ở Việt Nam:
Để giải quyết những hạn chế, bất cập từ thực tiễn triển khai cung cấp DVHCC của nền hành chính nhà nước thời gian qua, chúng ta cần tập trung vào một số nội dung như sau:
Một là, đổi mới nhận thức về chức năng của Nhà nước, về nền hành chính phục vụ nhân dân, bảo đảm sự tiếp cận dễ dàng và công bằng của công dân đối với DVHCC.
Hai là, đưa yếu tố “phục vụ” vào sứ mệnh tổ chức của hành chính công, thành lập các nhóm công tác chính sách để điều phối việc lập và thực hiện kế hoạch giữa các ngành, trong đó nhấn mạnh việc xác định trình tự công việc và theo dõi kết quả hoạt động. Tiến hành các điều tra lĩnh vực công thường kỳ, tập trung vào các khía cạnh liên quan đến vai trò của hành chính công và phát triển kinh tế, huy động sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể cũng như các tổ chức xã hội dân sự, các cơ quan dân cử, cán bộ dân cử.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của chính quyền các cấp; giảm đầu mối, bỏ cấp trung gian theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành chính thống nhất, thông suốt, hiện đại và đúng với vai trò. Thực hiện nhất quán nguyên tắc: một việc chỉ giao cho một cơ quan, một người chịu trách nhiệm chính.
Bốn là, tập trung chỉ đạo rà soát và cải cách mạnh mẽ các TTHC, tạo môi trường thuận lợi nhất cho sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp và nhu cầu chính đáng của người dân, như: thành lập, giải thể, tạm ngưng, phá sản doanh nghiệp; đăng ký kinh doanh và chứng nhận đầu tư; đầu tư xây dựng công trình, dự án và nhà ở; quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản; xuất khẩu, nhập khẩu; nộp thuế; hộ tịch, hộ khẩu, giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu, thị thực nhập cảnh; công chứng, chứng thực; thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp.
Hiện nay, kinh tế – xã hội, khoa học – công nghệ đang phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là xu thế dân chủ hóa, toàn cầu hóa và hội nhập đang đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao đối với Nhà nước ta trong việc cung ứng dịch vụ công. Vì vậy, Nhà nước phải có trách nhiệm phục vụ nhân dân, thể hiện bằng các hoạt động cung ứng dịch vụ công cho nhân dân và các tổ chức, doanh nghiệp.