Cách xác định thời hạn, thời hiệu trong các văn bản quy phạm pháp luật. Thời hạn, thời hiệu tính bằng ngày bình thường hay ngày làm việc? Quy định của pháp luật về cách tính thời hiệu khởi kiện? Quy định về thời hạn và cách tính thời hạn? Nguyên tắc áp dụng thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự?
Mục lục
Tóm tắt câu hỏi:
Thưa Luật sư! Xin hỏi, thời hạn, thời hiệu trong các văn bản quy phạm pháp luật có ghi 5 ngày, 30 ngày, 2 tháng, 24 tháng, 1 năm …. được hiểu là ngày bình thường (kể cả ngày nghỉ và ngày lễ) hay là ngày làm việc. Xin trân trọng cảm ơn Luật sư!
Luật sư tư vấn:
“Bộ luật dân sự 2015” quy định như sau về thời hạn, thời hiệu:
“Điều 149. Thời hạn
1. Thời hạn là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác.
2. Thời hạn có thể được xác định bằng phút, giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc bằng một sự kiện có thể sẽ xảy ra.
Điều 150. Áp dụng cách tính thời hạn
1. Cách tính thời hạn được áp dụng theo quy định của Bộ luật này, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
2. Thời hạn được tính theo dương lịch.
Xem thêm: Thời hiệu là gì? Thời hạn là gì? Phân biệt thời hạn và thời hiệu?
Điều 154. Thời hiệu
Thời hiệu là thời hạn do pháp luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì chủ thể được hưởng quyền dân sự, được miễn trừ nghĩa vụ dân sự hoặc mất quyền khởi kiện vụ án dân sự, quyền yêu cầu giải quyết việc dân sự.”
Như vậy, Bộ luật dân sự 2005 không quy định rõ khái niệm “ngày” là ngày bình thường hay ngày làm việc. Do đó, việc xác định thời hạn, thời hiệu theo ngày tùy thuộc vào quy định trong từng văn bản pháp luật và từng quy phạm pháp luật. Thậm chí, trong cùng một văn bản luật, khái niệm ngày cũng được hiểu khác nhau. Ví dụ Luật bảo hiểm xã hội 2014 quy định như sau:
“Điều 27. Thời gian hưởng chế độ khi con ốm đau
1. Thời gian hưởng chế độ khi con ốm đau trong một năm cho mỗi con được tính theo số ngày chăm sóc con tối đa là 20 ngày làm việc nếu con dưới 03 tuổi; tối đa là 15 ngày làm việc nếu con từ đủ 03 tuổi đến dưới 07 tuổi.
2. Trường hợp cả cha và mẹ cùng tham gia bảo hiểm xã hội thì thời gian hưởng chế độ khi con ốm đau của mỗi người cha hoặc người mẹ theo quy định tại khoản 1 Điều này.
Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ khi con ốm đau quy định tại Điều này tính theo ngày làm việc không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.
Xem thêm: Thời hiệu khởi kiện đòi nợ là bao lâu? Chậm khởi kiện mất quyền đòi nợ?
Luật sư
Điều 41. Dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản
1. Lao động nữ ngay sau thời gian hưởng
Thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe bao gồm cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần. Trường hợp có thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe từ cuối năm trước chuyển tiếp sang đầu năm sau thì thời gian nghỉ đó được tính cho năm trước.”
Như vậy, việc xác định là ngày bình thường hay ngày làm việc phụ thuộc vào quy định của từng văn bản pháp luật cụ thể.
1. Quy định của pháp luật về cách tính thời hiệu khởi kiện
Tóm tắt câu hỏi:
Xin chào luật sư, tôi muốn hỏi vấn đề sau mong luật sư giải đáp giúp tôi thắc mắc sau:
Đối với tranh chấp liên quan đến giao dịch về quyền sử dụng đất như: tranh chấp
Xem thêm: Thời hiệu khởi kiện thừa kế? Thời gian không tính thời hiệu khởi kiện thừa kế?
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Luật sư tư vấn:
Hợp đồng mà đối tượng là quyền sử dụng đất cũng là một loại hợp đồng và hợp đồng về quyền sử dụng đất không được quy định riêng về thời hiệu khởi kiện nên cũng phải tuân theo quy định chung về thời hiệu khởi kiện của hợp đồng. Pháp luật quy định về thời hiệu khởi kiện đối với hợp đồng có hiệu lực khác với thời hiệu khởi kiện đối với hợp đồng vô hiệu (thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu), và ở mỗi thời kỳ cũng có quy định khác nhau, cụ thể như sau:
* Nếu hợp đồng có hiệu lực thì thời hiệu khởi kiện như sau:
– Hợp đồng dược xác lập từ 01-7-1991 đến 30-6-1996 là thời gian thi hành Pháp lệnh Hợp đồng Dân sự nên thời hiệu khởi kiện là 03 năm kể từ ngày vi phạm (Điều 56 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự).
– Hợp đồng được xác lập từ khi Pháp lệnh hợp đồng dân sự hết hiệu lực (01-7-1996) đến trước khi Bộ luật Tố tụng Dân sự có hiệu lực (31-12-2004) thì pháp luật không có quy định thời hiệu khởi kiện đối với hợp đồng có hiệu lực nên thời hiệu khởi kiện không bị hạn chế.
– Hợp đồng được xác lập từ thời điểm thi hành Bộ luật Dân sự (01-01-2006) thì thời hiệu khởi kiện đối với hợp đồng có hiệu lực cũng theo quy định về thời hiệu khởi kiện chung tại Điều 159 Bộ luật Tố tụng Dân sự là 2 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.
– Đến thời điểm thi hành Bộ luật Dân sự (01-01-2006) thì đã có quy định về thời hiệu khởi kiện riêng về tranh chấp hợp đồng có hiệu lực (Điều 607 Bộ luật Dân sự) nhưng thời hạn vẫn là 2 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm (Điều 427 Bộ luật Dân sự)
Xem thêm: Thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định mới
* Đối với hợp đồng vô hiệu thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu tuyên bố vô hiệu như sau:
– Trước thời điểm thi hành Bộ luật Dân sự 1995 ( 1/7/1996) thì không có quy định thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu nên những hợp đồng vô hiệu xác lập trước 01-7-1996 không bị hạn chế về thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu. Cần lưu ý là trước đây có hướng dẫn khác nhưng sau đó đã được Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10-8-2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn lại.
– Hợp đồng vô hiệu xác lập trong thời kỳ thi hành Bộ luật Dân sự 1995 (từ 01-7-1996 đến 31-12-2005) thì thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại Điều 145 là một số trường hợp xác định thời hiệu khởi kiện là 01 năm (ví dụ: giao dịch vô hiệu vì lừa dối, nhầm lẫn, giao dịch với
– Theo quy định của “Bộ luật dân sự 2015” thì trường hợp vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, do giả tạo thì không bị hạn chế về thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu; còn các loại vô hiệu khác (kể cả vô hiệu do vi phạm về hình thức) đều có thời hiệu khởi kiện là 2 năm kể từ thời điểm xác lập giao dịch (Điều 136 Bộ luật Dân sự).
Cần lưu ý là đã có quy định riêng (như Điều 145 Bộ luật Dân sự 1995, Điều 136 Bộ luật Dân sự) thì phải áp dụng quy định riêng chứ không áp dụng thời hiệu chung của Điều 159 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
2. Quy định về thời hạn và cách tính thời hạn
Theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 thì:
“Thời hạn là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác. Thời hạn có thể được xác định bằng phút, giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc bằng một sự kiện có thể sẽ xảy ra”.
Về cách tính thời hạn: Thời hạn được tính theo dương lịch và được xác định như sau:
Xem thêm: Thời hiệu khởi kiện chia tài sản nhà đất
“Điều 151. Quy định về thời hạn, thời điểm tính thời hạn
1. Trong trường hợp các bên có thoả thuận về thời hạn là một năm, nửa năm, một tháng, nửa tháng, một tuần, một ngày, một giờ, một phút mà khoảng thời gian diễn ra không liền nhau thì thời hạn đó được tính như sau:
a) Một năm là ba trăm sáu mươi lăm ngày;
b) Nửa năm là sáu tháng;
c) Một tháng là ba mươi ngày;
d) Nửa tháng là mười lăm ngày;
đ) Một tuần là bảy ngày;
e) Một ngày là hai mươi tư giờ;
Xem thêm: Quy định của pháp luật Dân sự về thời hiệu
g) Một giờ là sáu mươi phút;
h) Một phút là sáu mươi giây.
2. Trong trường hợp các bên thoả thuận về thời điểm đầu tháng, giữa tháng, cuối tháng thì thời điểm đó được quy định như sau:
a) Đầu tháng là ngày đầu tiên của tháng;
b) Giữa tháng là ngày thứ mười lăm của tháng;
c) Cuối tháng là ngày cuối cùng của tháng.
3. Trong trường hợp các bên thoả thuận về thời điểm đầu năm, giữa năm, cuối năm thì thời điểm đó được quy định như sau:
a) Đầu năm là ngày đầu tiên của tháng một;
Xem thêm: Hỏi về thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính đã hết
b) Giữa năm là ngày cuối cùng của tháng sáu;
c) Cuối năm là ngày cuối cùng của tháng mười hai.
Điều 152. Thời điểm bắt đầu thời hạn
1. Khi thời hạn được xác định bằng phút, giờ thì thời hạn được bắt đầu từ thời điểm đã xác định.
2. Khi thời hạn được xác định bằng ngày, tuần, tháng, năm thì ngày đầu tiên của thời hạn không được tính mà tính từ ngày tiếp theo của ngày được xác định.
3. Khi thời hạn bắt đầu bằng một sự kiện thì ngày xảy ra sự kiện không được tính mà tính từ ngày tiếp theo của ngày xảy ra sự kiện đó.
Điều 153. Kết thúc thời hạn
1. Khi thời hạn tính bằng ngày thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn.
Xem thêm: Thời hiệu khởi kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc
2. Khi thời hạn tính bằng tuần thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày tương ứng của tuần cuối cùng của thời hạn.
3. Khi thời hạn tính bằng tháng thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày tương ứng của tháng cuối cùng của thời hạn; nếu tháng kết thúc thời hạn không có ngày tương ứng thì thời hạn kết thúc vào ngày cuối cùng của tháng đó.
4. Khi thời hạn tính bằng năm thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày, tháng tương ứng của năm cuối cùng của thời hạn.
5. Khi ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày nghỉ lễ thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc tiếp theo ngày nghỉ đó.
6. Thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn vào lúc hai mươi tư giờ của ngày đó”.
3. Nguyên tắc áp dụng thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
Sau đây là các nguyên tắc áp dụng thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự:
-Thứ nhất : Xác định vụ án dân sự, việc dân sự đó có thuộc trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện không.
+Trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được quy định tại điều 160 “
Xem thêm: Thời điểm bắt đầu thời hạn
“Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự không áp dụng trong những trường hợp sau đây:
1. Yêu cầu hoàn trả tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước;
2. Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
3. Các trường hợp khác do pháp luật quy định”.
+Trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự còn được quy định trong khoản 2 điều 23 Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03 tháng 12 năm 2012 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất của Bộ luật tố tụng dân sự hướng dẫn điểm a khoản 3 điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự:
Đối với các tranh chấp dân sự sau đây thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện:
a) Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản là tranh chấp ai có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó;
Ví dụ: Tranh chấp ai có quyền sở hữu nhà ở; nếu có khởi kiện thì Tòa án thụ lý vụ án; việc chấp nhận hay không phải căn cứ vào các quy định của pháp luật.
b) Tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu là tranh chấp về tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của mình nhưng do người khác quản lý, chiếm hữu tài sản đó;
Ví dụ: Ngôi nhà thuộc quyền sở hữu của A nhưng do B đang quản lý; A có tài liệu chứng minh ngôi nhà thuộc quyền sở hữu của A và khởi kiện đòi nhà thì Tòa án thụ lý; việc chấp nhận hay không phải căn cứ vào các quy định của pháp luật.
c) Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai là tranh chấp ai có quyền sử dụng đất đó.
– Thứ hai : Nếu vụ án dân sự, việc dân sự thuộc trường hợp có áp dụng thời hiệu khởi kiện thì phải căn cứ vào pháp luật nội dung, tức căn cứ vào quy định củ thể của pháp
– Thứ ba: Nếu pháp luật nội dung không quy định thì áp dụng khoản 3 điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự 65/2011/QH12 sửa đổi, bổ sung năm 2011
Khoản 3 điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự quy định như sau:
3. Trong trường hợp pháp luật không có quy định khác về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu thì thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu được quy định như sau:
a) Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm;
b) Thời hiệu yêu cầu để Tòa án giải quyết việc dân sự là một năm, kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu.
Điều 23 Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03 tháng 12 năm 2012 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất của Bộ luật tố tụng dân sự đã hướng dẫn củ thể khoản 3 điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự như sau :
1. Đối với tranh chấp dân sự mà văn bản quy phạm pháp luật có quy định về thời hiệu khởi kiện thì áp dụng thời hiệu khởi kiện được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật đó.
Ví dụ 1: Đối với tranh chấp về hợp đồng kinh doanh bảo hiểm thì theo quy định tại Điều 30 của Luật Kinh doanh bảo hiểm, thời hiệu khởi kiện về hợp đồng bảo hiểm là ba năm, kể từ thời điểm phát sinh tranh chấp;
Ví dụ 2: Đối với các tranh chấp lao động cá nhân thì theo quy định tại khoản 2 Điều 202 của Bộ luật lao động, thời hiệu khởi kiện về tranh chấp lao động cá nhân là 01 năm kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm
Ví dụ 3: Đối với tranh chấp về chia di sản thừa kế, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác thì theo quy định tại Điều 645 của “Bộ luật dân sự năm 2015” thì thời hiệu khởi kiện là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
2. Đối với các tranh chấp dân sự sau đây thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện:
a) Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản là tranh chấp ai có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó;
Ví dụ: Tranh chấp ai có quyền sở hữu nhà ở; nếu có khởi kiện thì Tòa án thụ lý vụ án; việc chấp nhận hay không phải căn cứ vào các quy định của pháp luật.
b) Tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu là tranh chấp về tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của mình nhưng do người khác quản lý, chiếm hữu tài sản đó;
Ví dụ: Ngôi nhà thuộc quyền sở hữu của A nhưng do B đang quản lý; A có tài liệu chứng minh ngôi nhà thuộc quyền sở hữu của A và khởi kiện đòi nhà thì Tòa án thụ lý; việc chấp nhận hay không phải căn cứ vào các quy định của pháp luật.
c) Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai là tranh chấp ai có quyền sử dụng đất đó.
3. Đối với tranh chấp dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự (hợp đồng vay tài sản, hợp đồng gửi giữ tài sản, thuê tài sản, thuê khoán tài sản, hợp đồng gia công, hợp đồng vận chuyển, hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, hợp đồng thuê quyền sử dụng đất, hợp đồng thuê lại quyền sử dụng đất), thì giải quyết như sau:
a) Đối với tranh chấp phát sinh từ giao dịch dân sự thì áp dụng thời hiệu quy định trong văn bản quy phạm pháp luật tương ứng đối với loại giao dịch đó.
Ví dụ: Tranh chấp về hợp đồng thuê nhà thì thời hiệu khởi kiện đối với hợp đồng cho thuê tài sản được xác định theo quy định tại Điều 427 của “Bộ luật dân sự năm 2015” thì thời hiệu khởi kiện là 02 năm.
b) Đối với tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, về đòi lại tài sản, đòi lại quyền sử dụng đất do người khác quản lý, chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện.
Ví dụ 1: Ngày 01-01-2008, A cho B vay 500 triệu đồng, thời hạn vay là 1 năm. Đến ngày 01-01-2009, B không trả tiền gốc và tiền lãi. Đến ngày 03-4-2011, A khởi kiện yêu cầu buộc B trả lại khoản tiền gốc và tiền lãi. Đối với yêu cầu thanh toán khoản tiền lãi thì Tòa án không giải quyết vì đã hết thời hiệu khởi kiện. Đối với yêu cầu thanh toán khoản tiền gốc thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện, Tòa án thụ lý giải quyết theo thủ tục chung.
Ví dụ 2: Trường hợp người cho thuê tài sản mà có tranh chấp về hợp đồng thuê tài sản thì thời hiệu khởi kiện đối với hợp đồng cho thuê tài sản được xác định theo quy định tại Điều 427 của “Bộ luật dân sự năm 2015”. Đối với tranh chấp về đòi lại tài sản cho thuê do người khác đang quản lý, chiếm hữu thì căn cứ hướng dẫn tại điểm a khoản 3 Điều 159 của BLTTDS và điểm b khoản 3 của Điều này không áp dụng thời hiệu khởi kiện.
Ví dụ 3: Đối với tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ mà có tranh chấp về việc ai có quyền sở hữu đối với quyền sở hữu trí tuệ đó thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Nếu tranh chấp các giao dịch về quyền sở hữu trí tuệ thì áp dụng thời hiệu tương ứng đối với giao dịch quyền sở hữu trí tuệ đó.
4. Đối với tranh chấp dân sự mà văn bản quy phạm pháp luật không có quy định về thời hiệu khởi kiện và không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 3 Điều 159 của BLTTDS và hướng dẫn tại khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều này, thì thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày cá nhân, cơ quan, tổ chức biết được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
Ví dụ: Điều 111 Luật Đường sắt quy định “Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu giải quyết tranh chấp về hợp đồng trong hoạt động kinh doanh đường sắt được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự và pháp luật về trọng tài thương mại”.
5. Thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được tính kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm và được xác định như sau:
a) Đối với nghĩa vụ dân sự mà các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định thời hạn thực hiện, nếu hết thời hạn đó mà bên có nghĩa vụ không thực hiện, thì ngày hết hạn thực hiện nghĩa vụ là ngày xảy ra xâm phạm;
b) Đối với nghĩa vụ dân sự mà các bên không thoả thuận hoặc pháp luật không quy định thời hạn thực hiện, nhưng theo quy định của pháp luật các bên có thể thực hiện nghĩa vụ hoặc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bất cứ lúc nào nhưng phải
c) Trường hợp khi hết hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự, các bên có thoả thuận kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ đó, thì việc xác định ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm căn cứ vào ngày chấm dứt thoả thuận của các bên và được thực hiện như hướng dẫn tại điểm a và điểm b khoản 5 Điều này;
d) Trong quá trình thực hiện hợp đồng mà có vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng, thì ngày vi phạm nghĩa vụ là ngày xảy ra xâm phạm, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Nếu một bên đơn phương đình chỉ hợp đồng thì ngày đơn phương đình chỉ hợp đồng là ngày bị xâm phạm.
đ) Đối với trường hợp đòi bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm tài sản, sức khoẻ, tính mạng,…, thì ngày xảy ra hành vi xâm phạm tài sản, sức khoẻ, tính mạng,… là ngày bị xâm phạm.
e) Trong một quan hệ pháp luật hoặc trong một giao dịch dân sự, nếu hành vi xâm phạm xảy ra ở nhiều thời điểm khác nhau, thì thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được tính kể từ thời điểm xảy ra hành vi xâm phạm cuối cùng.
g) Trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a, b, c, d, đ và e khoản 5 Điều này nếu các bên có thoả thuận khác về thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện, thì thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được xác định theo thoả thuận của các bên.
6. Theo quy định tại Điều 160 của BLTTDS thì các quy định của “Bộ luật dân sự năm 2015” về thời hiệu được áp dụng trong tố tụng dân sự; do đó, việc không áp dụng thời hiệu khởi kiện, thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện, bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện,… được thực hiện theo quy định của “Bộ luật dân sự năm 2015”.
4. Cách tính thời hiệu theo quy định của Luật dân sự 2015
Khi xem xét một thời hạn ta cần quan tâm tới các yếu tố của thời hạn đó là điểm bắt đầu, điểm kết thúc và độ dài của thời hạn. Thời hiệu là một loại thời hạn và vì vậy nó cũng chứa đựng các yếu tố trên của thời hạn.
Về cách tính thời hiệu, Bộ luật dân sự 2015 đã có quy định tại Điều 156 của bộ luật như sau:
“Điều 156. Cách tính thời hiệu
Thời hiệu được tính từ thời điểm bắt đầu ngày đầu tiên của thời hiệu và chấm dứt tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hiệu”.
Tuy nhiên đối với hai hình thức hay hai loại thời hiệu, đó là thời hiệu khởi kiện và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự thì nhà làm luật còn quy định thêm về thời điểm bắt đầu thời hiệu tại Điều 159 Bộ luật dân sự 2015:
“Điều 159. Bắt đầu thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự
1. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được tính từ ngày quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được tính từ ngày phát sinh quyền yêu cầu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Việc xác định thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu có ý nghĩa rất lớn đối với việc xác định thời điểm kết thúc thời hiệu. Nó ảnh hưởng trực tiếp tới việc thực hiện quyền khởi kiện, yêu cầu của các chủ thể. Với những cách xác định bắt đầu thời hiệu khác nhau sẽ có kết thúc thời hiệu khác nhau do đó sẽ dẫn đến những hậu quả khác nhau. Vì vậy nhà làm luật đã quy định thời điểm bắt đầu thời hiệu ngay trong bộ luật để các chủ thể và tòa án có thể chủ động trong việc xác định.
Luật sư
Trong các yếu tố cấu thành thời hiệu thì thời điểm bắt đầu thời hiệu và thời điểm kết thúc thời hiệu là hai yếu tố có sự tác động và ảnh hưởng mang tính chất quyết định. Tuy nhiên, sự tác động này chỉ mang tính một chiều, thời điểm bắt đầu là yếu tố quyết định thời điểm kết thúc thời hiệu. Sẽ không thể có kết thúc thời hiệu nếu không có bắt đầu thời hiệu, xác định kết thúc thời hiệu có chính xác hay không là phụ thuộc vào việc xác định bắt đầu thời hiệu.
Tuy nhiên, việc xác định thời điểm kết thúc của thời hiệu vẫn giữ một vi trí quan trọng. Tuy không đứng độc lập nhưng đây lại là điều kiện đủ để xác định xem một chủ thể còn hay không còn quyền khởi kiện, yêu cầu giải quyết việc dân sự, hay xác định xem chủ thể có hay không có quyền dân sự hay đã được miễn một nghĩa vụ dân sự nào đó hay chưa.
Khoảng thời gian không tính vào thời hiệu:
Vấn đề này chỉ xuất hiện trong thời hiệu khởi kiện và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự. Để đảm bảo cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể khi thực hiện hoạt động này thì Bộ luật dân sự 2015 đã quy định thời gian không tính vào thời hiệu. Khoảng thời gian này phải là khoảng thời gian xảy ra các sự kiện khách quan là khoảng thời gian xảy ra thiên tại, lũ lụt, hỏa hoạn hay bất kì các sự kiện nào không có yếu tố chủ quan….
Ngoài ra, thời gian không tính vào thời hiệu còn có thể là thời gian chủ thể có quyền khởi kiên, yêu cầu lâm vào tình trạng không nhận thức, kiểm soát được hành vi nhưng lại không có người thay họ thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự… Do xuất phát từ yếu tố khách quan chứ không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể, nằm ngoài tầm kiểm soát, dự liệu nên cho dù khoảng thời gian đó ngắn hay dài thì nó cũng không được tính vào thời hiệu, trừ trường hợp có chứng cứ chứng minh chủ thể cố tình kéo dài thời gian xảy ra sự kiện nhằm kéo dài thời hiệu. Về vấn đề gián đoạn thời hiệu, trong pháp luật Việt Nam hiện hành đã quy định rất cụ thể tại Khoản 2 Điều 158 Bộ luật dân sự 2005.