Theo các quy định của pháp luật về tố tụng hành chính thì Thẩm phán được quyền trả lại đơn khởi kiện trong những trường hợp nhất định. Vậy quy định các trường hợp Tòa án trả lại đơn kiện vụ án hành chính như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Các trường hợp Tòa án trả lại đơn kiện vụ án hành chính:
Căn cứ khoản 1 Điều 123 Văn bản hợp nhất 30/VBHN-VPQH 2019 hợp nhất Luật Tố tụng hành chính quy định về các trường hợp trả lại đơn khởi kiện, Điều này quy định Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính trong những trường hợp sau đây:
– Người khởi kiện hành chính không có quyền khởi kiện;
– Người khởi kiện hành chính không có năng lực hành vi tố tụng hành chính đầy đủ;
– Trường hợp pháp luật có quy định về điều kiện khởi kiện hành chính nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó;
– Sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc bằng quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật;
– Sự việc hành chính không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án;
– Người khởi kiện hành chính lựa chọn giải quyết vụ việc theo thủ tục giải quyết khiếu nại trong trường hợp vừa có đơn khiếu nại, vừa có đơn khởi kiện
– Đơn khởi kiện hành chính không có đủ nội dung chính trong đơn khởi kiện hành chính mà pháp luật quy định mà không được người khởi kiện thực hiện việc sửa đổi, bổ sung sau khi Thẩm phán thông báo bằng văn bản cho người khởi kiện hành chính về những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung trong đơn khởi kiện, bao gồm các nội dung sau:
+ Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện;
+ Tòa án được yêu cầu giải quyết về vụ án hành chính;
+ Tên, địa chỉ; số điện thoại, số fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người khởi kiện vụ án hành chính, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
+ Nội dung quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết về khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, quyết định giải quyết về khiếu nại trong hoạt động kiểm toán nhà nước, nội dung về giải quyết khiếu nại về danh sách cử tri hoặc tóm tắt diễn biến của hành vi hành chính;
+ Nội dung về quyết định giải quyết khiếu nại (nếu có);
+ Các yêu cầu đề nghị Tòa án giải quyết;
+ Cam đoan về việc không thực hiện đồng thời khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.
– Hết thời hạn được thông báo để nộp tiền tạm ứng án phí mà người khởi kiện hành chính không xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Tòa án, trừ trường hợp người khởi kiện hành chính được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có những lý do chính đáng. Thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được thông báo nộp tiền tạm ứng án phí thì người khởi kiện hành chính phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp biên lai cho Tòa án.
2. Quy định về khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện:
Điều 124 Văn bản hợp nhất 30/VBHN-VPQH 2019 hợp nhất Luật Tố tụng hành chính quy định về khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện hành chính, Điều này quy định khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện hành chính như sau:
– Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện, người khởi kiện hành chính có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện.
– Ngay sau khi nhận được khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện hành chính, Chánh án Tòa án phải phân công một Thẩm phán xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị.
– Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày được phân công thì khi đó Thẩm phán phải mở phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Phiên họp để xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị phải có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp và có sự tham gia của đương sự có khiếu nại. Trường hợp người khởi kiện hành chính, Kiểm sát viên vắng mặt thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên họp.
– Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc trả lại đơn khởi kiện hành chính, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và người khởi kiện hành chính có khiếu nại tại phiên họp, Thẩm phán phải ra một trong các quyết định sau đây:
+ Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện hành chính và thông báo cho người khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp;
+ Nhận lại đơn khởi kiện hành chính và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án.
– Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết định trả lời khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện hành chính của Thẩm phán, người khởi kiện hành chính có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp xem xét, giải quyết.
– Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện ành chính, Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp phải ra một trong các quyết định sau đây:
+ Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện hành chính;
+ Yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm nhận lại đơn khởi kiện hành chính và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án.
– Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp là quyết định cuối cùng. Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp phải được gửi ngay cho người khởi kiện hành chính, Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát đã kiến nghị và Tòa án đã ra quyết định trả lại đơn khởi kiện.
3. Tòa án trả lại đơn kiện vụ án hành chính có được khởi kiện lại:
Khoản 4 Điều 125 Văn bản hợp nhất 30/VBHN-VPQH 2019 hợp nhất Luật Tố tụng hành chính quy định trường hợp đã hết thời hạn nộp tiền tạm ứng án phí pháp luật quy định (10 ngày kể từ ngày nhận được thông báo nộp tiền tạm ứng án phí thì người khởi kiện hành chính phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp biên lai cho Tòa án) mà người khởi kiện hành chính không nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí thì Tòa án thông báo cho họ biết về việc không thực hiện việc thụ lý vụ án với lý do là họ không nộp tiền tạm ứng án phí. Ở trường hợp này, người khởi kiện hành chính có quyền nộp đơn khởi kiện lại nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.
Như vậy, người khởi kiện bị Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp hết thời hạn được thông báo để nộp tiền tạm ứng án phí mà người khởi kiện hành chính không xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Tòa án thì người khởi kiện hành chính được quyền khởi kiện lại nếu như thời hiệu khởi kiện vẫn còn. Thời hiệu khởi kiện được quy định tại Điều 116 Văn bản hợp nhất 30/VBHN-VPQH 2019 hợp nhất Luật Tố tụng hành chính quy định như sau:
– Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà cơ quan, tổ chức, cá nhân có được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện.
– Thời hiệu khởi kiện đối với mỗi trường hợp được quy định như sau:
+ 01 năm kể từ ngày mà nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc;
+ 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, quyết định về giải quyết khiếu nại trong hoạt động kiểm toán nhà nước
+ Từ ngày nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan thực hiện lập danh sách cử tri hoặc kết thúc thời hạn giải quyết khiếu nại mà lại không nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri đến trước ngày bầu cử 05 ngày.
– Trường hợp đương sự khiếu nại theo đúng những quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định như sau:
+ 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc là quyết định giải quyết khiếu nại lần hai;
+ 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo đúng những quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại.
– Trường hợp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác mà làm cho người khởi kiện không khởi kiện được trong thời hạn 01 năm kể từ ngày mà nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc và trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày mà nhận được quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, quyết định về giải quyết khiếu nại trong hoạt động kiểm toán nhà nước thì thời gian đã có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác không tính vào thời hiệu khởi kiện.
Những văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Văn bản hợp nhất 30/VBHN-VPQH 2019 hợp nhất Luật Tố tụng hành chính.