Các trường hợp nào cháu được hưởng di sản thừa kế của ông bà? Bố mẹ mất, cháu có được hưởng thừa kế của ông bà không? Ông bà để lại di chúc cho cháu được không?
Theo quy định của
CĂN CỨ PHÁP LÝ:
NỘI DUNG TƯ VẤN:
Mục lục bài viết
1. Quyền thừa kế theo quy định của pháp luật
Theo điều 609 Bộ luật dân sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định như sau:
-Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
-Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc.
Theo quy định của pháp luật cá nhân có quyền sở hữu tài sản thì có quyền lập di chúc định đoạt tài sản của mình cho người khác hưởng sau khi chết. Việc lập di chúc phải tuân theo các quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực di chúc. Trường hợp cá nhân không lập di chúc, thì sẽ để lại tài sản của mình cho những người thừa kế theo quy định của pháp luật. Pháp luật quy định trình tư, thủ tục chuyển dịch di sản của người để lại thừa kế cho những người thừa kế. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật có quyền nhận hoặc từ chối nhận di sản , trừ trường hợp việc từ chối nó nhằm trốn tránh nghĩa vụ tài sản đối với người thứ ba. Thừa kế theo pháp luật pháp sinh dựa trên một trong các quan hệ sau: hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Thừa kế theo di chúc phát sinh theo ý chí chủ quan của người lập di chúc mà không có điều kiện bắt buộc. Người lập di chúc có quyền định đoạt tài sản của mình cho bất kỳ chủ thể nào, vì vậy, nếu di chúc chỉ định pháp nhân thì pháp nhân đó là người thừa kế theo di chúc.
2. Hưởng di sản thừa kế theo di chúc theo quy định của pháp luật
Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Do đó, ông, bà hoàn toàn có quyền chỉ định người thừa kế cũng như phân định phần di sản cho từng người thừa kế.Di chúc là ý nguyện của cá nhân khi còn sống muốn người khác thực hiện ý nguyện của mình sau khi chết. Nội dung di chúc rất đa dạng như điều căn dặn con cháu, bí mật của gia đình dòng họ được tiết lộ, lập hương hỏa, phân chia di sản…
Trường hợp nội dung của di chúc phân chia di sản cho người khác sau khi chết , thì ý nguyện của người chết sẽ được thực hiện nếu phù hợp với các yêu cầu của pháp luật. Sau khi mở thừa kế, người được chỉ định trong di chúc có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế theo nội dung di chúc có quyền yêu cầu di sản theo nội dung di chúc đã định đoạt, người được hưởng di sản theo di chúc gọi là người thừa kế theo di chúc, trường hợp khác phức tạp hơn nếu di chúc định đoạt một phần di sản làm di sản thờ cúng hoặc di chúc không chỉ định cho những người thừa kế bắt buộc thì họ sẽ hưởng một phần bằng 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật.
Bởi vậy, nếu trong di chúc, ông, bà có để lại di sản cho người cháu thì hiển nhiên, người cháu được quyền hưởng di sản thừa kế từ ông, bà.
3. Quy định về việc thừa kế theo pháp luật
Sau khi mở thừa kế, nếu không có di chúc hoặc có nhưng di chúc không có hiệu lực thì di sản của người để lại di sản của người thừa kế chia cho những người trong cùng một hàng thừa kế. Hàng thừa kế gồm những người thân thích theo quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa những người thân thích với người chết là khác nhau, cho nên pháp luật quy định những người có quan hệ gần gũi đối với người để lại thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất, những người xa hơn thuộc hàng thừa kế thứ hai, thứ ba..
Những người thừa kế theo pháp luật có năng lực thừa kế thì được hưởng di sản theo một trình tự như sau: di sản được chia cho những người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất, trường hợp hàng thứ nhất không có hoặc có nhưng tất cả không nhận di sản choa cho hàng thừa kế thứ hai. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng một suất thừa kế ngang nhau và phải thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết trong phạm vi di sản được hưởng.
Trong các trường hợp sau đây thì di sản thừa kế sẽ được chia theo pháp luật:
– Không có di chúc. Khi mở thừa kế mà không có di chúc hoặc có nhưng bị thất lạc không tìm thấy thì di sản sẽ chia cho những người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất. Mỗi người thừa kế được hưởng một phần di sản và thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi di sản được nhận. Nếu di chúc bị thất lạc mà tìm thấy sau khi chia di sản nhưng trong thời hiệu thừa kế, thì phải coi trường hợp này là tình tiết mới để xét xử tái thẩm và chia di sản theo di chúc.
– Di chúc không hợp pháp. Di chúc hợp pháp phải tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của di chúc. Trường hợp di chúc vi phạm một trong các điều kiện được quy định tại điều 620 bộ luật dân sự thì di chúc vô hiệu ( không có giá trị pháp lý), di sản được chia thừa kế theo pháp luật.
– Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc cùng thời điểm với người lập di chúc, cơ quan, tổ chức được chỉ định trong di chúc,
– Cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế
– Người được hưởng thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản
Theo quy định tại Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015, người cháu thuộc hàng thừa kế thứ hai, gồm:
– Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại,
– Anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết;
– Cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại
Trong trường hợp này, người cháu chỉ được hưởng di sản thừa kế khi không còn ai ở hàng thừa kế thứ nhất vì các nguyên nhân:
– Chết
– Không có quyền hưởng di sản
– Bị truất quyền hưởng di sản
– Từ chối nhận di sản
Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
-Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
– Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;
– Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
4. Thừa kế kế vị theo quy định của pháp luật
Theo điều 652 của bộ luật dân sự năm 2015 về thừa kế thế vị như
Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống. Theo đó, khái niệm thừa kế thế vị được hiểu như sau: Thừa kế thế vị là việc các con (cháu, chắt) được thay thế vào vị trí của bố hoặc mẹ (ông, bà) để hưởng di sản của ông, bà (hoặc cụ). Những người thừa kế thế vị được hưởng phần di sản mà bố mẹ mình (ông hoặc bà) đáng lẽ được hưởng nếu còn sống, được chia đều di sản với những người thừa kế khác.
Trong quan hệ thừa kế thế vị, di sản được dịch chuyển từ người để lại di sản đến người thụ hưởng trải qua bốn thế hệ, từ các cụ đến chắt. Khi di sản dịch chuyển theo loại thừa kế này, những người liên quan đều có một tên gọi để phân biệt vị trí của từng người trong quan hệ thừa kế. Theo đó khi con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha, mẹ của cháu được hưởng khi còn sống.
Ở đây, “cha hoặc mẹ của cháu” là người được thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản nhưng do không tồn tại vào thời điểm mở thừa kế nên không được hưởng di sản, mà “cháu” sẽ là người thay thế “cha hoặc mẹ” để nhận di sản từ người để lại di sản; Nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản, con hoặc cháu của người để lại di sản nếu còn sống. Và người thế vị trí được hiểu là cháu hoặc chắt của người để lại di sản và là người thay thế vị trí của người được thế vị để nhận di sản từ người để lại di sản lẽ ra người được thế vị được hưởng nếu còn sống.
Theo nguyên tắc chung, người thừa kế là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế, nhưng pháp luật thừa kế nước ta quy định trường hợp khi con của người để lại di sản chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản, thì quyền thừa kế thế vị của cháu vẫn được đảm bảo và nếu cháu cũng đã chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cũng tương tự, quyền thừa kế thế vị của chắt cũng sẽ không bị xâm phạm.
Quy định của điều luật này có sự khác biệt so với quy định về thừa kế thế vị tại Điều 680 BLDS 1995. Điều 680 BLDS 1995 chỉ quy định thừa kế thế vị trong trường hợp con hoặc cháu chết trước người để lại di sản mà không quy định đến trường hợp cháu hoặc chắt có được thừa kế thế vị hay không nếu cha hoặc mẹ của cháu hoặc của chắt chết cùng vào một thời điểm với ông, bà nội, ngoại hoặc các cụ nội, ngoại.
Do đó, nếu xảy ra các trường hợp nêu trên thì người cháu (hàng thừa kế thứ 2) được hưởng di sản thừa kế từ ông, bà để lại theo thừa kế kế vị hoặc cháu sẽ được hưởng di sản của ông bà nếu ông bà có để lại di chúc.