Bảo hiểm xã hội bắt buộc là gì? Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội bắt buộc? Vai trò của pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc?
Mục lục bài viết
1. Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội bắt buộc:
Thứ nhất, mức hưởng Bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng Bảo hiểm xã hội và có chia sẻ giữa những người tham gia Bảo hiểm xã hội . Nguyên tắc này được thể hiện trên các mặt sau: người lao động có đóng Bảo hiểm xã hội thì được hưởng chế độ; thời gian tham gia đóng Bảo hiểm xã hội nhiều, mức đóng góp cao thì mức trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, lương hưu, trợ cấp tử tuất và trợ cấp thất nghiệp được hưởng với mức cao và ngược lại. Tuy nhiên, với đặc tính của bảo hiểm là chia sẻ giữa những người tham gia, nguyên tắc chia sẻ của Bảo hiểm xã hội được thể hiện tất cả các chế độ, nhưng rõ nét nhất là ở các chế độ: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp và trợ cấp thất nghiệp. Các chế độ này có số lượng người lao động tham gia đóng góp đông nhưng chỉ để chi trả cho một số người không may gặp các trường hợp rủi ro như ốm đau, tai nạn, thất nghiệp.
Thứ hai, mức đóng Bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp được tính trên cơ sở tiền lương, tiền công của người lao động. Nguyên tắc này quy định người tham gia Bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp đóng Bảo hiểm xã hội theo tỷ lệ xác định trên cơ sở tiền lương, tiền công mà không đóng Bảo hiểm xã hội trên mức thu nhập thực tế như: tiền lương tăng thêm, các khoản phụ cấp khác (trừ phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề), thu nhập do lương tăng thêm, do thực hiện chế độ khoán sản phẩm đem lại... Việc quy định nguyên tắc này vừa đảm bảo cho việc sản xuất, kinh doanh cho các doanh nghiệp được ổn định, vừa đảm bảo cho thực hiện quản lý thu Bảo hiểm xã hội trong điều kiện thực tế hiện nay do việc xác định thu nhập của người lao động còn khó khăn.
Thứ ba, người lao động vừa có thời gian đóng Bảo hiểm xã hội bắt buộc vừa có thời gian đóng Bảo hiểm xã hội tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở thời gian đóng Bảo hiểm xã hội . Với nguyên tắc này, giữa Bảo hiểm xã hội bắt buộc và Bảo hiểm xã hội tự nguyện có sự liên thông, đảm bảo cho người tham gia Bảo hiểm xã hội khi hết tuổi lao động có nhiều cơ hội được hưởng chế độ hưu trí do thời gian đóng Bảo hiểm xã hội được tính bằng tổng thời gian đóng Bảo hiểm xã hội của 2 loại hình. Tuy nhiên theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội thì trong cùng một thời điểm, người lao động chỉ được tham gia đóng Bảo hiểm xã hội bắt buộc hoặc Bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Thứ tư, quỹ Bảo hiểm xã hội được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch, được sử dụng đúng mục đích, được hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần của Bảo hiểm xã hội bắt buộc, Bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. Nguyên tắc này quy định quỹ Bảo hiểm xã hội được quản lý thống nhất và hạch toán theo các quỹ thành phần trên cơ sở công khai, minh bạch, sử dụng đúng mục đích nhằm đảm bảo cho việc quản lý, đầu tư quỹ có hiệu quả và phục vụ cho công tác hạch toán, đánh giá tình hình cân đối quỹ để có điều chỉnh về chính sách cho phù hợp, đảm bảo cân đối thu – chi, điều chỉnh kịp thời khi các quỹ thành phần tạm thời bị mất cân đối, không ảnh hưởng đến quyền lợi của người tham gia Bảo hiểm xã hội .
Thứ năm, việc thực hiện Bảo hiểm xã hội phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia Bảo hiểm xã hội . Với nguyên tắc này, việc thực hiện Bảo hiểm xã hội đối với người lao động phải được nghiên cứu để quy định cụ thể về hồ sơ, quy trình, thời hạn giải quyết sao cho phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người lao động, người sử dụng lao động khi tham gia Bảo hiểm xã hội và khi giải quyết hưởng các chế độ Bảo hiểm xã hội ,
Nhìn chung những nguyên tắc của Bảo hiểm xã hội nêu trên đã thể hiện quan điểm và thể chế hóa đường lối của Đảng và Nhà nước về Bảo hiểm xã hội , đó là:
– Xây dựng trên cơ sở kế thừa và hoàn thiện những quy định trong pháp luật về Bảo hiểm xã hội hiện hành, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, đồng thời có tham khảo kinh nghiệm của các nước, đặc biệt là các nước trong khu vực, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế;
– Chế độ Bảo hiểm xã hội xây dựng mức hưởng trên cơ sở mức đóng và chia sẻ giữa những người tham gia Bảo hiểm xã hội nhằm góp phần thực hiện an sinh xã hội; bảo đảm mối tương quan hợp lý giữa các đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội ở các thời kỳ khác nhau; bảo đảm quan hệ hài hòa giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội; mở rộng đối
tượng tham gia Bảo hiểm xã hội , các chế độ Bảo hiểm xã hội và loại hình Bảo hiểm xã hội ; đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và tiến trình công nghiệp hóa.
– Quỹ Bảo hiểm xã hội được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch, được hạch toán tương ứng với từng nhóm chế độ; quản lý và sử dụng theo nguyên tắc cân đối thu – chi, bảo toàn và phát triển; được Nhà nước bảo hộ.
2. Vai trò của pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc:
Bảo hiểm xã hội đóng một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo đời sống và hiệu quả làm việc đối với người lao động nói riêng. Người tham gia đóng Bảo hiểm xã hội sẽ được hưởng nhiều quyền lợi khi gặp rủi ro trong quá trình làm việc và đảm bảo nguồn thu nhập sau khi nghỉ hưu nên Bảo hiểm xã hội có vai trò to lớn đối với cả cá nhân người lao động, người sử dụng lao động và xã hội nói chung. Các vai trò đó thể hiện những nội dung sau:
Thứ nhất, thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội nhằm ổn định cuộc sống người lao động, trợ giúp người lao động khi gặp rủi ro như ốm đau, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp... được chi trả chi phí điều trị, tạo điều kiện sớm trở lại trạng thái sức khỏe ban đầu cũng như sớm có việc làm.... Người lao động tham gia Bảo hiểm xã hội được nhận tiền trợ cấp khi ốm đau không đi làm được, được nghỉ chăm con ốm; khi thai sản được nghỉ khám thai, được nghỉ khi sinh đẻ và nuôi con, được nhận trợ cấp khi sinh con và trợ cấp thai sản; khi bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp sẽ được nhận phần trợ cấp do giảm khả năng lao động do tai nạn, bệnh nghề nghiệp gây ra. Ngoài ra, người lao động còn được nghỉ dưỡng sức và phục hồi sức khỏe sau khi ốm đau, sinh đẻ hay điều trị thương tật nhằm nâng cao thể lực. Khi người lao động mất việc làm sẽ được hưởng trợ cấp thất nghiệp và được giới thiệu việc làm hoặc gửi đi học nghề để có cơ hội tìm kiếm việc làm mới.
Theo phương thức Bảo hiểm xã hội , người lao động khi có việc làm và khỏe mạnh sẽ đóng góp một phần tiền lương, thu nhập vào quỹ Bảo hiểm xã hội . Quỹ này hỗ trợ người lao động khi ốm đau, tai nạn, lúc sinh đẻ và chăm sóc con cái, khi không làm việc, lúc già cả để duy trì và ổn định cuộc sống của người lao động và gia đình họ. Do vậy, hoạt động Bảo hiểm xã hội , một mặt, đòi hỏi tính trách nhiệm cao của từng người lao động đối với bản thân mình, với gia đình và đối với cộng đồng, xã hội theo phương châm “mình vì mọi người, mọi người vì mình” thông qua quyền và nghĩa vụ; mặt khác, thể hiện sự gắn kết trách nhiệm giữa các thành viên trong xã hội, giữa các thế hệ kế tiếp nhau trong một quốc gia, tạo thành một khối đoàn kết thống nhất về quyền lợi trong một thể chế chính trị – xã hội bền vững.
– Người sử dụng lao động cũng phải có trách nhiệm đóng góp Bảo hiểm xã hội cho người lao động. Nếu theo nhìn nhận ban đầu, việc đóng góp Bảo hiểm xã hội cho người lao động có thể sẽ làm tăng chi phí sản xuất, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Nhưng thực chất, về lâu dài, phương thức Bảo hiểm xã hội đã chuyển giao trách nhiệm bảo vệ người lao động khi gặp rủi ro về phía xã hội, rủi ro được điều tiết trên phạm vi toàn xã hội, giúp cho chủ sử dụng lao động bớt những khó khăn, lo lắng về nguồn lao động của doanh nghiệp, yên tâm tổ chức sản xuất, kinh doanh. Đối với nước ta, nguồn lao động với trình độ chuyên môn cao, người lao động có mức thu nhập ở mức bình quân chung toàn xã hội là chủ yếu thì biện pháp điều tiết thu nhập mang tính cộng đồng là rất cần thiết. Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chế biến thủy sản, hải sản; da giày, dệt may... sử dụng nhiều lao động, nhất là doanh nghiệp có nhiều lao động nữ đều rất coi trọng chính sách Bảo hiểm xã hội để bảo vệ và duy trì nguồn lao động của doanh nghiệp mình.
Trong hoạt động Bảo hiểm xã hội , Nhà nước tiến hành xây dựng chính sách, chế độ, tổ chức triển khai và giám sát quá trình thực hiện nhằm thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của người tham gia Bảo hiểm xã hội . Như vậy nhà nước giữ vai trò quản lý về Bảo hiểm xã hội , bảo hộ cho quỹ Bảo hiểm xã hội mà không phải chi từ ngân sách nhà nước cho lĩnh vực này. Mặt khác, chính sách Bảo hiểm xã hội là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội, giúp Nhà nước điều tiết mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và xã hội trên phương diện vĩ mô, bảo đảm cho nền kinh tế liên tục phát triển và giữ gìn ổn định xã hội trong từng thời kỳ cũng như trong suốt quá trình.
Thứ hai, thực hiện tốt chính sách Bảo hiểm xã hội , nhất là chế độ hưu trí, góp phần ổn định cuộc sống của người lao động khi hết tuổi lao động hoặc không còn khả năng lao động.
Trong nhiều năm qua, kể từ khi chính sách Bảo hiểm xã hội được thực hiện, cùng với sự phát triển kinh tế, mức lương hưu cũng không ngừng được điều chỉnh cho phù hợp với mức sống chung của toàn xã hội. Vào các thời điểm tăng mức lương tối thiểu chung cũng như việc xem xét chỉ số giá cả, Nhà nước đều có sự điều chỉnh lương hưu một cách hợp lý. Mức lương hưu không ngừng được điều chỉnh cho phù hợp với mức sống chung toàn xã hội tại thời điểm hưởng lương hưu đã bảo đảm cuộc sống của người nghỉ hưu, tạo sự an tâm, tin tưởng của người về hưu sau cả cuộc đời lao động. Tương tự như vậy, các quyền lợi về Bảo hiểm y tế , về chế độ ốm đau, chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; mức trợ cấp tuất một lần... cũng được cải thiện rõ rệt.
Sở dĩ có được điều kiện nâng cao và mở rộng các quyền lợi của Bảo hiểm xã hội là do phương thức tài chính ở nước ta được hình thành theo cách lập quỹ và có sự tính toán điều chỉnh quan hệ đóng – hưởng trong phạm vi toàn xã hội theo những dự báo về các yếu tố kinh tế – xã hội trong tương lai. Theo phương thức lập quỹ, người lao động, trước hết phải có trách nhiệm với bản thân trong việc đóng góp lập quỹ Bảo hiểm xã hội , dành dụm cho mai sau, tránh tình trạng đẩy toàn bộ gánh nặng chi trả cho thế hệ mai sau. Mặt khác, với việc lập quỹ Bảo hiểm xã hội đã gắn kết được trách nhiệm của các thế hệ kế tiếp trong cùng chính sách Bảo hiểm xã hội . Chính sự phát triển với tốc độ nhanh của nền kinh tế nước ta của thế hệ đương thời theo truyền thống “con hơn cha” góp phần cải thiện rõ nét mức sống của người về hưu đã có đóng góp một phần trước đây. Vì vậy, nguồn quỹ Bảo hiểm xã hội được Nhà nước bảo hộ và phát triển cân đối bền vững sẽ là cơ sở để cải thiện không ngừng các chế độ Bảo hiểm xã hội nói chung và đời sống của người nghỉ hưu nói riêng.
Thứ ba, thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội góp phần ổn định và nâng cao chất lượng lao động, bảo đảm sự bình đẳng về vị thế xã hội của người lao động trong các thành phần kinh tế khác nhau, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Với những quyền lợi của người lao động khi tham gia Bảo hiểm xã hội đã góp phần thu hút nguồn lao động vào nền sản xuất xã hội, giữ gìn và nâng cao thể lực cho người lao động trong suốt quá trình lao động, sản xuất. Việc được tham gia Bảo hiểm xã hội khi đang làm việc và được hưởng lương hưu sau này đã tạo ra cho người lao động sự phấn khởi, tâm lý ổn định, an tâm vào việc làm mà họ đang thực hiện. Thực tế là nhiều doanh nghiệp, khi tuyên truyền quảng cáo tuyển dụng lao động, thì tiêu thức được tham gia Bảo hiểm xã hội cũng là một quyền lợi quan trọng thu hút được nhiều lao động. Sự an tâm của người lao động cũng như việc bảo vệ sức lao động của họ thông qua chính sách Bảo hiểm xã hội đã trở thành một chính sách thu hút nguồn lao động vào nền sản xuất xã hội, bảo đảm sự ổn định và thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thứ tư, Bảo hiểm xã hội là một công cụ đắc lực của Nhà nước, góp phần vào việc phân phối lại thu nhập quốc dân một cách công bằng, hợp lý giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời giảm chi cho ngân sách nhà nước, bảo đảm an sinh xã hội bền vững.
Sau khi đã thực hiện thuế thu nhập, Nhà nước sẽ tiến hành phân phối lại | thông qua chính sách Bảo hiểm xã hội . Khi đó, người có năng lực hơn, nhận được tiền lượng cao hơn sẽ đóng góp nhiều hơn cho xã hội để trợ giúp những người “yếu thế” hơn trong xã hội. Một bộ phận lao động khác do gặp phải rủi ro trong cuộc sống như về sức khỏe, về năng lực, về hoàn cảnh gia đình... có việc làm và thu nhập thấp hơn sẽ nhận được các quyền lợi Bảo hiểm xã hội để duy trì cuộc sống. Bên cạnh đó, chế độ hưu trí, tử tuất với nguyên tắc tương đồng giữa mức đóng và mức | hưởng đã khuyến khích người lao động khi làm việc có thu nhập cao và đóng góp mức cao, với thời gian dài thì sau này sẽ được hưởng tiền lương hưu với mức cao, an tâm nghỉ ngơi khi tuổi già .
Bảo hiểm xã hội đều được thực hiện theo nguyên tắc đóng – hưởng, có nghĩa là người tham gia đóng góp vào quỹ Bảo hiểm xã hội thì người đó mới được hưởng quyền lợi về Bảo hiểm xã hội . Như vậy, nguồn để thực hiện chính sách là do người lao động đóng góp, Nhà nước không phải bỏ ngân sách ra nhưng vẫn thực hiện được mục tiêu an sinh xã hội lâu dài.