Điều lệ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh định rõ các hình thức kỷ luật được áp dụng tùy theo tính chất và mức độ của vi phạm, khuyết điểm của cán bộ, đoàn viên và cơ quan lãnh đạo của Đoàn. Dưới đây là bài viết về: Các hình thức kỷ luật Đoàn viên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Mục lục bài viết
1. Kỷ luật Đoàn viên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là gì?
Kỷ luật Đoàn viên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là các biện pháp nhằm giáo dục, sửa chữa hành vi vi phạm, tăng cường kỷ cương đoàn viên, góp phần xây dựng Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vững mạnh. Điều này được quy định trong Điều lệ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và các văn bản hướng dẫn của Đoàn, nhưng phải tuân thủ theo pháp luật và các quy định liên quan khác.
2. Nguyên tắc kỷ luật Đoàn viên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh:
Điều 32 của Điều lệ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh quy định rằng:
– Việc kỷ luật Đoàn phải đảm bảo sự thống nhất ý chí và hành động, bảo đảm tính kỷ cương của Đoàn và giáo dục cán bộ, đoàn viên.
– Việc thi hành kỷ luật của Đoàn phải đảm bảo tính công minh, chính xác và kịp thời khi xử lý cán bộ, đoàn viên vi phạm kỷ luật, đồng thời phải được thông báo công khai.
– Khi đưa ra biểu quyết hình thức kỷ luật đối với cơ quan lãnh đạo của Đoàn, cán bộ đoàn và đoàn viên, cần sử dụng phiếu kín.
Hướng dẫn 16-HD/TWĐTN-BTC năm 2018 đã quy định một số vấn đề chung khi kỷ luật Đoàn:
– Kỷ luật Đoàn nhằm đảm bảo sự thống nhất ý chí và hành động, tăng cường sức chiến đấu của Đoàn. Mục đích của việc thi hành kỷ luật là giáo dục cán bộ, đoàn viên vi phạm khuyết điểm, sửa chữa sai lầm và đảm bảo kỷ luật của Đoàn được nghiêm minh.
– Trong quá trình kỷ luật, cán bộ đoàn và đoàn viên đều bình đẳng trước pháp luật. Nếu có vi phạm khuyết điểm, tùy theo tính chất và mức độ vi phạm, cả hai đều sẽ bị xem xét xử lý. Tuy nhiên, kỷ luật của Đoàn không thay thế kỷ luật của Đảng, kỷ luật hành chính hay kỷ luật của các tổ chức khác.
– Trong quá trình kiểm tra, nếu phát hiện cán bộ hoặc đoàn viên vi phạm khuyết điểm nghiêm trọng, báo cáo cấp bộ đoàn cùng cấp phối hợp với cơ quan chức năng để xem xét và xử lý. Khi xem xét và xử lý, phải căn cứ vào kết quả tự phê bình và kết quả thẩm tra xác minh để đảm bảo kết luận khách quan, chính xác, không bỏ sót khuyết điểm. Ngoài ra, cần làm rõ nguyên nhân, động cơ và hoàn cảnh sai phạm.
– Nếu cán bộ hoặc đoàn viên có khuyết điểm đang trong quá trình kiểm tra hoặc xem xét, họ không được rút đơn khỏi danh sách ban chấp hành hoặc xét đơn xin ra Đoàn.
– Trong trường hợp ban chấp hành hoặc ủy ban kiểm tra khóa cũ chưa kết luận và xử lý kỷ luật, phải chuyển giao hồ sơ để ban chấp hành hoặc ủy ban kiểm tra khóa mới tiếp tục xem xét, kết luận và xử lý. Tất cả các quy định này sẽ giúp Đoàn TNCS Hồ Chí Minh giữ vững sự nghiêm minh và công bằng trong việc kỷ luật cán bộ và đoàn viên.
3. Các hình thức kỷ luật Đoàn viên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh:
Khoản 2 Điều 32 Điều lệ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (theo hướng dẫn bởi điểm 23.2 khoản 23 Hướng dẫn 16-HD/TWĐTN-BTC năm 2018) định rõ các hình thức kỷ luật được áp dụng tùy theo tính chất và mức độ của vi phạm, khuyết điểm của cán bộ, đoàn viên và cơ quan lãnh đạo của Đoàn.
3.1. Đối với cơ quan lãnh đạo của đoàn:
Đối với cơ quan lãnh đạo của Đoàn, có ba hình thức kỷ luật được áp dụng.
– Thứ nhất là khiển trách, áp dụng trong trường hợp cơ quan lãnh đạo vi phạm Điều lệ, chỉ thị, nghị quyết, các nguyên tắc của Đoàn, chủ trương đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước, với tính chất và mức độ không lớn và ảnh hưởng trong phạm vi hẹp.
– Thứ hai là cảnh cáo, áp dụng trong trường hợp cơ quan lãnh đạo vi phạm Điều lệ, chỉ thị, nghị quyết và các nguyên tắc của tổ chức Đoàn, chủ trương đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước với tính chất và mức độ lớn, ảnh hưởng trong phạm vi rộng nhưng chưa đến mức phải áp dụng hình thức giải tán hoặc đã bị Đoàn cấp trên kỷ luật khiển trách mà còn tái phạm.
– Thứ ba là giải tán, áp dụng trong trường hợp cơ quan lãnh đạo vi phạm rất nghiêm trọng Điều lệ Đoàn, không đủ khả năng lãnh đạo công tác đoàn và phong trào thanh thiếu nhi.
3.2. Đối với cán bộ đoàn, đoàn viên:
Trong quy trình quản lý kỷ luật của tổ chức Đoàn, có ba cấp độ kỷ luật được áp dụng đối với cán bộ đoàn và đoàn viên tùy thuộc vào mức độ vi phạm của họ.
– Cấp độ đầu tiên là khiển trách, được áp dụng cho những cán bộ đoàn hoặc đoàn viên mắc khuyết điểm lần đầu, có khuyết điểm nhẹ và ảnh hưởng trong phạm vi hẹp. Tuy nhiên, những cá nhân này đã nhận thấy khuyết điểm và quyết tâm sửa chữa.
– Cấp độ thứ hai là cảnh cáo, được áp dụng cho cán bộ đoàn hoặc đoàn viên vi phạm kỷ luật bị khiển trách và sau đó tái phạm, hoặc mới vi phạm lần đầu nhưng có tính chất tương đối nghiêm trọng và ảnh hưởng tương đối rộng.
– Cấp độ cuối cùng là cách chức, được áp dụng cho cán bộ đoàn vi phạm khuyết điểm nghiêm trọng gây ảnh hưởng xấu đến tổ chức Đoàn và không xứng đáng để giữ chức vụ đó. Tuy nhiên, việc cách chức cần phải được xem xét và quyết định một cách công bằng và có tính thuyết phục.
+ Khi áp dụng hình thức kỷ luật cách chức đối với cán bộ giữ nhiều chức vụ, có một số yếu tố cần được xem xét để đảm bảo tính công bằng và hiệu quả của quá trình kỷ luật. Đầu tiên, tùy theo tính chất và mức độ vi phạm, có thể cách một chức, nhiều chức hoặc cách hết chức vụ Đoàn mà cán bộ hiện đang đảm nhiệm.
+ Nếu cán bộ đoàn giữ nhiều chức vụ trong cùng một cấp như bí thư (hoặc phó bí thư), ủy viên ban thường vụ, ủy viên ban chấp hành và vi phạm kỷ luật, thì khi áp dụng hình thức cách chức, phải xác định rõ chức vụ nào sẽ bị cách. Cụ thể, nếu cách chức bí thư (hoặc phó bí thư) thì cán bộ vẫn còn giữ chức ủy viên ban thường vụ và ủy viên ban chấp hành. Tương tự, nếu cách chức ủy viên ban thường vụ, cán bộ vẫn giữ chức ủy viên ban chấp hành. Nếu cách chức ủy viên ban chấp hành, thì cán bộ sẽ mất hết các chức vụ mà mình đang giữ.
+ Trong trường hợp cán bộ giữ nhiều chức vụ ở nhiều cấp, thì khi vi phạm kỷ luật phải cách chức, cách chức ở cấp nào thì chỉ mất chức ở cấp đó. Các chức vụ ở các cấp khác mà cán bộ đang giữ sẽ vẫn còn.
+ Ngoài ra, trong trường hợp một cán bộ vừa là ủy viên ban chấp hành vừa là ủy viên ủy ban kiểm tra cùng cấp, khi vi phạm kỷ luật phải cách chức, phải xác định chức vụ nào sẽ bị cách. Nếu cách chức ủy viên ban chấp hành thì cán bộ không còn giữ chức ủy viên ủy ban kiểm tra. Nếu cách chức ủy viên ủy ban kiểm tra, thì cán bộ vẫn giữ chức ủy viên ban chấp hành, tuy nhiên, cấp bộ đoàn sẽ xem xét tư cách của cán bộ này trong vai trò ủy viên ban chấp hành dựa trên mức độ vi phạm.
– Hình thức kỷ luật cao nhất của Đoàn là khai trừ, được áp dụng đối với cán bộ đoàn hoặc đoàn viên phạm khuyết điểm ở mức rất nghiêm trọng và gây tác hại lớn đến tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Việc áp dụng hình thức này đánh dấu sự chấm dứt hoàn toàn quyền lợi và nghĩa vụ của người bị kỷ luật đối với Đoàn và gây ra hậu quả nghiêm trọng đến sự phát triển của Đoàn.
Điểm khác biệt giữa khai trừ và các hình thức kỷ luật khác là thời gian bị áp dụng. Điều đó có nghĩa là sau khi bị khai trừ, đoàn viên bị loại khỏi tổ chức và không được coi là thành viên của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Đoàn viên bị khai trừ có thể xin phép được quay lại trở thành đoàn viên sau một năm, tuy nhiên thời gian bị khai trừ không được tính vào kinh nghiệm tham gia Đoàn của họ.
Với mức độ nghiêm trọng của hình thức kỷ luật này, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh luôn đề cao tính minh bạch và công khai trong quá trình áp dụng khai trừ. Các quy định và quy trình cụ thể được đưa ra để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của cả người bị kỷ luật và tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh được đảm bảo và tuân thủ.
3.3. Một số trường hợp không phải là hình thức kỷ luật:
Các biện pháp sau không được coi là hình thức kỷ luật:
– Đình chỉ chức vụ, đình chỉ công tác đối với cán bộ đoàn và đình chỉ công tác, sinh hoạt đoàn đối với đoàn viên nhằm hỗ trợ quá trình kiểm tra và xác định những vi phạm liên quan đến họ. Thời gian tối đa của đình chỉ là 3 tháng. Nếu sau 3 tháng không có kết quả kiểm tra, nếu cần thiết, có thể thực hiện đình chỉ lần thứ 2 trong thời gian tối đa là 3 tháng.
– Xóa tên đoàn viên khỏi danh sách đoàn viên trong các trường hợp sau: Nếu đoàn viên không tham gia hoạt động của Đoàn hoặc không đóng đoàn phí trong vòng 3 tháng liên tục trong một năm mà không có lý do chính đáng, thì hội nghị chi đoàn có thẩm quyền xem xét và quyết định xóa tên đoàn viên khỏi danh sách đoàn viên, sau đó báo cáo trực tiếp cho Đoàn cấp trên.