Các nguyên nhân dẫn đến các vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật về đồng phạm? Đề xuất một số biện pháp khắc phục các hạn chế, vướng mắc?
Tóm lại, việc nghiên cứu một số tồn tại, vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật về đồng phạm cho phép chúng ta cứ ra một số nguyên nhân cơ bản của thực trạng này như sau:
Mục lục bài viết
- 1 1. Các nguyên nhân dẫn đến các vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật về đồng phạm:
- 2 3. Đề xuất một số biện pháp khắc phục các hạn chế, vướng mắc:
- 2.1 3.1. Giải pháp xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về chế định đồng phạm:
- 2.2 3.2. Nâng cao chất lượng công tác giải thích và áp dụng pháp luật:
- 2.3 3.3. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ý thức pháp luật và trách nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức:
- 2.4 3.4. Bảo đảm điều kiện cơ sở vật chất cho các cơ quan tư pháp và chế độ, chính sách, đãi ngộ về vật chất, tinh thần cho đội ngũ cán bộ, công chức:
1. Các nguyên nhân dẫn đến các vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật về đồng phạm:
* Nguyên nhân khách quan:
– Với sự phát triển của nền kinh tế, xã hội hiện nay, nhất là trong thời kỳ mới hội nhập, các quan hệ nảy sinh ngày càng đa dạng, theo đó tình hình tội phạm ngày càng gia tăng số lượng cũng như tính chất phức tạp của các vụ án hình sự. Một vụ án nhưng có thể có nhiều hành vi xâm hại nhiều quan hệ được pháp luật bảo vệ, mỗi vụ án có thể có rất nhiều bị cáo với nhiều loại hành vi khác nhau cùng tham gia, thậm chí có nhiều loại hành vi rất khó đánh giá, nhận biết đã xâm hại mối quan hệ nào, cấu thành tội danh nào. Việc xử lý đối với những vụ án này cũng khó khăn phức tạp. Một loại người tham gia việc phạm tội nhưng có thể ở nhiều dạng hành vi ở nhiều giai đoạn phạm tội khác nhau tùy thuộc vào từng vụ án cụ thể nên rất khó nhận biết việc xác định chính xác vị trí, vai trò của những người đồng phạm trong vụ án hình sự.
– Các quy định hiện hành của Bộ luật hình sự và các văn bản hướng dẫn còn rất chung chung dẫn đến những khó khăn lúng túng trong thực tế áp dụng. Tính chất, mức độ tham gia đồng phạm của người phạm tội có khi hoàn toàn phụ thuộc vào đánh giá chủ quan của những người tiến hành tố tụng. Chính vì quy định không cụ thể nên rất dễ dẫn đến tình trạng tùy tiện cùng một vụ án có thể có những đánh giá khác nhau. Bên cạnh đó, trong quá trình xây dựng thể chế, chúng ta dù coi trọng việc nghiên cứu khoa học và tổng kết đều tra thực tiễn nhưng công tác thông kê tội phạm còn nhiều bất cập, thiếu nhiều tiêu chí thống kê. Nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn chưa được đánh giá đúng mức ý nghĩa, hệ quả của chúng từ đó việc xây đúng các quy định không sát, không hợp lý, không sửa đổi kịp thời, tính dự báo không cao. Kinh nghiệm lập pháp còn hạn chế, việc xây dựng án lệ từ thực tiễn xét xử mới được đặt ra gần đây nhưng mới được thực hiện ở những bước đầu, đang từng bước phát triển, chưa đảm bảo được vị trí vững chắc đúng nghĩa trong hệ thống pháp luật.
*Nguyên nhân chủ quan:
– Trước hết, đó là sự nhận thức về đồng phạm của những người tiến hành tố tụng có sự khác nhau. Cùng một nội dung quy định trong pháp luật nhưng có nhiều cách hiểu nhiều quan điểm khác nhau thậm chí trái ngược nhau. Trong cùng một trường hợp thực tế, có người xác định vai trò này, có người lại xác định tư cách khác. Hoặc trong những trường hợp khác nhau nhưng hành vi có củng bản chất, việc xác định tội danh trách nhiệm hình sự cũng khác nhau về hình thức đồng phạm, trong cùng một vụ án phạm tội có đồng phạm, có quan điểm cho rằng phạm tổ có tổ chức, có quan điểm cho rằng chỉ là đồng phạm phức tạp. Từ đó, khi so sánh giữa các vụ án có đồng phạm với nhau là tồn tại thêm các quan điểm khác nhau.
– Tinh thần trách nhiệm, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của một số bộ phận cán bộ, công chức cơ quan điều tra, truy tố, xét xử còn hạn chế dẫn đến việc vận động các quy định pháp luật để giải quyết vụ án hình sự không được chính xác. Việc nhận thức các vấn đề của luật nội dung có nơi còn chưa thống nhất dẫn tới áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng các quy định về chế định đồng phạm còn có sự nhầm lẫn hời hợt. Các bản kết luận điều tra, các trang cáo trạng, luận tội và đặc biệt là bản án chưa có đánh giá chưa thỏa đáng về vị trí, vai trò của các bị cáo trong các vụ án có đồng phạm, về nội dung và hình thức của đồng phạm. Điều này cũng có một phần nguyên nhân là do số lượng cán bộ có chuyên môn trong các cơ quan tiến hành tố tụng không đủ để giải quyết, đặc biệt là ngành Công an, Kiểm sát và Tòa án ở nhiều địa phương thiếu nguồn tuyển dụng cán bộ và bổ nhiệm Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán. Điều này đã tạo ra áp lực công việc rất lớn trong việc thực hiện nhiệm vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử.
– Công tác đào tạo, bồi dưỡng tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án chưa được chú trọng chưa có sự đổi mới về cách thức tiến hành và giáo trình tập huấn chưa đảm bảo được sự đầu tư đúng mức. Trong đào tạo, bồi dưỡng chưa có kế hoạch tổng thể mang tính chiến lược, chất lượng chưa cao, nhiều khi chỉ mang tính hình thức. Điều kiện cơ sở vật chất phục vụ công việc, chế độ, chính sách lương thưởng cho đội ngũ cán bộ, công chức ngành tư pháp còn thiếu thốn, yếu kém, chưa đảm bảo nhu cầu thực thi nhiệm vụ, chưa đảm bảo cuộc sống ổn định, tận tâm cho sự nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả, chất lượng công việc, mục tiêu chung.
3. Đề xuất một số biện pháp khắc phục các hạn chế, vướng mắc:
3.1. Giải pháp xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về chế định đồng phạm:
Ngày 02/6/2005, Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (sau đây gọi là Nghị quyết số 49-NQ/TW) được Bộ Chính trị ban hành, trong đó xác định mục tiêu chiến lược là “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”. Theo đó, Chiến lược cải cách tư pháp được triển khai theo 4 định hướng cơ bản: Hoàn thiện thể chế hình sự, dân sự, thủ tục tư pháp; Cải cách tổ chức các cơ quan tư pháp và các thiết chế bổ trợ tư pháp mà trung tâm là Tòa án và khâu đột phá là tăng cường tranh tụng dân chủ; Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp; Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, giám sát của Nhân dân đối với hoạt động tư pháp. pháp luật hình sự Việt Nam đã và đang được hoàn thiện theo các mục tiêu, định hướng của Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra như tăng tính hướng thiện, nhân đạo trong chính sách hình sự, hình thành các cơ chế, thiết chế pháp lý phù hợp hơn và đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 được ban hành đã thể chế hóa kịp thời tư tưởng cải cách tư pháp tuy nhiên trong bộ luật này, chế định đồng phạm về cơ bản không có sự sửa đổi đáng kể nào, những bất cập trong các quy định của pháp luật hình sự trước đó, những hạn chế mà chúng tôi đề cập vẫn chưa được khắc phục hoặc khắc phục chưa triệt để.
Như vậy, chúng tôi cho rằng cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự về chế định đồng phạm, cập nhật những quan điểm, chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước trong thời kì mới, góp phần khắc phục những kẽ hở, lỗ hổng của chế định, loại trừ những quy định chưa rõ ràng, không chính xác về khoa học, lạc hậu, không phù hợp với thực tiễn. Trên cơ sở tham khảo phần kiến giải lập pháp của người hướng dẫn khoa học khi thực hiện luận văn, TSKH.GS Lê Cảm, chúng tôi đưa ra kiến giải lập pháp chế định đồng phạm trong Bộ luật hình sự với các quy phạm có nội dung dưới đây.
Các kiến giải lập pháp của chúng tôi đề xuất tập trung khắc phục 03 vấn đề hạn chế lớn của Bộ luật hình sự hiện hành mà chúng tôi đã phân tích lại Mục 2.3 Chương II của Luận văn đó là: Định nghĩa lại chính xác hơn về hình thức phạm tội đồng phạm, đồng phạm có tổ chức (phạm tội có tổ chức) và các loại người đồng phạm quy định về hành vi vượt quá của người thực hành và quy định về tổ chức tội phạm. Trong đó, để đảm bảo sự nghiêm túc trong khoa học và tôn trọng bản quyền của các tác giả Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, chúng tôi sử dụng từ (các từ) được viết nghiêng là biểu thị cho các kiến giải lập pháp mà chúng tôi góp ý xây dựng, sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự hiện hành. Còn từ (cụm từ) được viết đúng là biểu thị của việc giữ nguyên không thay đổi nội dung của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. kiến giải lập pháp của chúng tôi về chế định đồng phạm trong Chương về tội phạm trong Bộ luật hình sự cụ thể như sau:
3.2. Nâng cao chất lượng công tác giải thích và áp dụng pháp luật:
Qua hơn 15 năm thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, Nhà nước ta đã xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật trong đó có pháp luật hình sự ngày càng lớn, chất lượng ngày càng cao, đáp ứng xử lý tốt những vấn đề phức tạp của thực tiễn phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm. Trên hết, các quy định của pháp luật phải đảm bảo các tiêu chí về tính đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai và minh bạch. Do đó, để giải quyết những khó khăn, vướng mắc nêu trên, đòi hỏi các chủ thể có liên quan phải nâng cao tính đồng bộ và thống nhất trong việc áp dụng các quy định của pháp luật.
Song song với việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về đồng phạm là cơ sở, căn cứ pháp lý, quá trình các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng vận dụng các quy định pháp luật đó để xác định chính xác tính chất, mức độ, vai trò, trách nhiệm hình sự của các bị can, bị cáo trong từng vụ án cụ thể đóng vai trò quan trọng không kém. Trên thực tế, hoạt động áp dụng pháp luật không phải lúc nào cũng đúng đắn và để góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động này, chúng tôi cho rằng cần thực hiện một số giải pháp khắc phục như:
– Chủ thể thi hành pháp luật phải hiểu một cách đầy đủ chính xác các khái niệm và nội dung quy định của pháp luật hình sự về đồng phạm. Đối với những vấn đề chưa rõ ràng, cần tham khảo nhiều ý kiến, quan điểm, so sánh đối chiếu giữa các trường hợp để hiểu được bản chất như việc hiểu và áp dụng quy định về hành vi vượt quá của người thực hành, phạm tội có tổ chức, vv…?. Trong mỗi vụ án hình sự có đồng phạm cụ thể, cần xác định đồng thời những vấn đề liên quan trách nhiệm hình sự của riêng từng người đồng phạm và của chung cả vụ án, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và tính cá thể hóa. Khi giải quyết vụ án, không chỉ áp dụng pháp luật hình sự mà cần có sự bao quát và áp dụng cả các quy định của những ngành luật khác có liên quan.
– Nâng cao công tác thỉnh thị cấp trên và trao đổi nghiệp vụ với đồng nghiệp cùng cấp: biện pháp này vẫn được các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng thực hiện và nó phù hợp với với nhiều chủ thể áp dụng pháp luật khác. Đối với vụ án nào có khó khăn, vướng mắc hoặc nhiều quan điểm về tội danh, hay xác định vai trò, trách nhiệm hình sự của người đồng phạm ngoài yêu cầu phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, tìm hiểu sâu các tài liệu và các quy định của pháp luật có liên quan thì khi giải quyết vụ án, THPT, cá nhân thực hiện nếu không chắc chắn hay khó xác định có thể đưa ra trao đổi với đồng nghiệp để cùng bàn bạc thảo luận xem quan điểm nào là hợp lý nhất, hoặc xin ý kiến thỉnh thị, tham khảo kinh nghiệm, quan điểm chỉ đạo của cấp trên từ đó đưa ra được cách giải quyết đúng đắn. Qua công tác này, các cơ quan tiến hành tố tụng cấp trên có thể nâng cao việc thực hiện nhiệm vụ giải thích pháp luật, chủ đạo là ngành Tòa án nhân dân và ngoài ra là ngành Kiểm sát nhân dân.
Qua tổng kết thực tiễn giải quyết các vụ án có đồng phạm, hướng dẫn chỉ đạo tháo gỡ các vướng mắc của cấp dưới, Tòa án nhân dân cấp cao cần thiết tiếp tục ban hành các Nghị quyết, Thông tư, phối hợp ban hành các Thông tư liên tịch hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự về đồng phạm; xây dựng, tổng hợp ban hành các giải đáp, công văn hướng dẫn nghiệp vụ. Nhấn mạnh rằng, một trong những công cụ chủ đạo của ngành Tòa án để giải thích pháp luật là án lệ. Tòa án nhân dân tối cao cần tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng án lệ để có những kết luận rõ ràng, đánh giá đúng thống nhất về các vụ án hình sự nói chung và các vấn đề liên quan đến đồng phạm nói riêng. Tính đến nay, chúng tôi ghi nhận 01 án lệ có liên quan đến đồng phạm là Án lệ số 17/2018/AL về tình tiết “Có tính chất côn đồ” trong tội “Giết người” có đồng phạm.
Ngành Kiểm sát nhân dân với chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, xét xử vụ án hình sự, đóng vai trò quan trọng trong công tác giải thích và áp dụng pháp luật. Viện kiểm sát nhân dân cấp trên cần tăng cường hiệu quả công tác trả lời thỉnh thị, chỉ đạo nghiệp vụ cho cấp dưới. Các cơ quan cần thực hiện tốt công tác thống kê tội phạm, đúc rút các kinh nghiệm, tổng hợp các khó khăn để cái nhìn tổng quát khi giải thích pháp luật.
Đến nay, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã thực hiện nhiều hội nghị giải đáp trực tuyến về nghiệp vụ, tổng hợp ban hành các văn bản giải đáp. Qua tổng kết thực tiễn xét xử, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành nhiều thông báo rút kinh nghiệm trong toàn ngành. Qua đó, nhiều vướng mắc liên quan đến đồng phạm được giải quyết, tháo gỡ có hiệu quả, thuận lợi cho việc thi hành pháp luật.
– Nâng cao hiệu quả quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự: Công tác phối hợp đặc biệt phải chú ý trong các vụ án hình sự có đồng phạm, những vụ án nghiêm trọng trở lên, có tính chất phức tạp, đồng phạm có tổ chức,… Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án các cấp phải thực hiện tốt mối quan hệ phối hợp, để đảm bảo hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh, chống tội phạm. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung, vụ án có đồng phạm nói riêng, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán cần phối kết hợp tốt, đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử đạt chất lượng, hiệu quả; kịp thời trao đổi, giải quyết những khó khăn, vướng mắc, thống nhất áp dụng và đường lối xử lý. Kết quả công tác phối hợp của ba ngành đảm bảo không để trường hợp nào xảy ra oan sai, không bỏ lọt tội phạm và hành vi phạm tội, góp phần tích cực vào việc hoàn thành chỉ tiêu nhiệm vụ của mỗi ngành; giữ vững an ninh trật tự, phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
3.3. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ý thức pháp luật và trách nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định phương hướng chung về phát triển đội ngũ cán bộ, công chức trong đó có đội ngũ cán bộ tư pháp như sau: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo dựa trên cơ chế cạnh tranh về tuyển dụng, chế độ đãi ngộ và đề bạt; có phẩm chất đạo đức tốt và bản lĩnh chính trị vững vàng” Vấn đề nhân lực trong ngành tư pháp luôn được Đảng và Nhà nước xem trọng. Thời gian vừa qua, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành nhiều nội quy, quy chế nhằm tăng cường đạo đức công vụ, tính liêm chính và uy tín của ngành. Ví dụ: Ngành Kiểm sát triển khai thực hiện Đề án phòng, chống tiêu cực trong hoạt động của Viện kiểm sát, đồng thời, thực hiện cuộc vận động của ngành về xây dựng đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên “Vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm” trong sạch, trung thành với Đảng, tận tụy với công vụ, có đức tính “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”, có năng lực đáp ứng yêu cầu của tình hình mới; Bộ trưởng Bộ Công an ban hành Thông tư quy định về quy tắc ứng xử của Công an nhân dân. Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia có Quyết định số 87 QĐ-HĐTC ban hành Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán; vv…
Để đảm bảo sự chính xác, nhanh chóng, toàn diện, khách quan trong giải quyết vụ án hình sự, đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán các cấp và cán bộ tư pháp khác, trực tiếp là những người tiến hành tố tụng trong vụ án cần được quan tâm từ khâu tuyển dụng cán bộ, khâu đào tạo nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn đến bồi dưỡng đạo đức, trách nhiệm công vụ, đảm bảo sự trưởng thành về lượng và chất.
Thứ nhất, ở công tác tuyển dụng cán bộ, công chức Đảng ta xác định: Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước, có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Trước thực tế thiếu hụt nhân lực ngành Luật chất lượng cao, đặt ra yêu cầu khó khăn cho ngành Tư pháp trong khâu tuyển dụng cán bộ. Nhằm tuyển chọn được các cán bộ vừa có đức, vừa có tài, theo chúng tôi cần thống nhất, đồng bộ công tác tuyển dụng thông qua thi tuyển, đảm bảo nghiêm túc, không xảy ra tiêu cực. Bên cạnh đó, từng địa phương cần phải có cơ chế thu hút người tài, ưu tiên tuyển thẳng đối với những sinh viên xuất sắc, những người có trình độ sau đại học, kèm theo nhiều chế độ đãi ngộ cao.
Thứ hai, thực hiện chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức tư pháp: Căn cứ Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, một nhiệm vụ của cải cách tư pháp là thực hiện quá trình chuẩn hóa đội ngũ Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên và cán bộ tư pháp về cả trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp. Việc bổ nhiệm các chức danh tư pháp hiện nay ngoài các tiêu chuẩn về trình độ học vấn còn được đánh giá chặt chẽ thông qua hình thức thi tuyển, quy định rõ trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014,
Để tháo gỡ các khó khăn, trở ngại trong thực thi pháp luật, xuất phát từ mặt chủ quan, chúng ta cần nâng cao ý thức pháp luật, trình độ nhận thức pháp luật của các cán bộ, công chức. Ba ngành tư pháp cần tăng cường việc đào tạo, đào tạo lại hoặc bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức. Tổ chức thực hiện tốt việc tập huấn chuyên môn nghiệp vụ theo hướng có chất lượng hiệu quả, đáp ứng đúng nhu cầu thực tế. Tạo điều kiện thuận lợi và động viên khuyến khích cán bộ, công chức tự học tập nâng cao năng lực trình độ và giao lưu, học hỏi lẫn nhau. Trong tình hình hội nhập quốc tế hiện nay, nhằm đáp ứng yêu cầu giải quyết các vụ án hình sự đang ngày càng phức tạp, trình độ cao, có tính chất nước ngoài, việc mở rộng quan hệ quốc tế, cử cán bộ đi học tập, nâng cao kiến thức là cần thiết. Đồng thời, không được bỏ sót việc giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức của người cán bộ đảm bảo mọi cán bộ đều có tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp, nhận thức rõ vai trò của mình trong công cuộc bảo vệ nhân dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, chống mọi hành vi phạm tội, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
Thứ ba, về công tác xử lý cán bộ, công chức có vi phạm: Tăng cường công tác quản lý cán bộ, thanh tra, kiểm tra để phát hiện xử lý kịp thời đối với các tập thể và cá nhân cán bộ, công chức có vi phạm, đặc biệt là xử lý nghiêm minh các hành vi lợi dụng nghề nghiệp, lợi chức vụ quyền hạn, lạm quyền trong thi hành công vụ, làm trái với các quy định của pháp luật, gây ảnh hưởng và thiệt hại đến quyền con người, quyền công dân, lợi ích của xã hội, của Nhà nước. Bộ phận Thanh tra, tổ chức cán bộ cần nghiêm túc, thường xuyên giám sát, sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, kỷ luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, không còn uy tín đối với nhân dân. Cán bộ, công chức là người tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng, thuộc hoạt động tư pháp, nếu có những hành vi vi phạm nghiêm trọng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp quy định tại Chương XXIV Bộ luật hình sự năm 2015.
3.4. Bảo đảm điều kiện cơ sở vật chất cho các cơ quan tư pháp và chế độ, chính sách, đãi ngộ về vật chất, tinh thần cho đội ngũ cán bộ, công chức:
Đảng ta luôn chỉ đạo, trong công tác xây dựng cán bộ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương phải đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ, chính sách, đãi ngộ, tạo môi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục vụ phát triển. Muốn đảm bảo trách nhiệm nghề nghiệp, đạo đức công vụ cao nhất, giải pháp tiên quyết là phải tăng cường các điều kiện về cơ sở vật chất và phương tiện làm việc của các cá nhân, cơ quan, tổ chức, cần phải có chế độ chính sách đãi ngộ thích đáng cho đội ngũ cán bộ các ngành tư pháp, mà ngành Tòa án và ngành Kiểm sát hiện nay đang gặp hạn chế hơn cả.
Việc bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện và trang thiết bị làm việc cho cán bộ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay đang là vấn đề phức tạp, rất cần có sự đồng thuận, ủng hộ của các cơ quan tổ chức trong hệ thống chính trị. Để nhận được sự quan tâm, đầu tư đúng mức của toàn hệ thống, toàn ngành, toàn bộ máy cần ý thức rõ vai trò, trách nhiệm trong sự nghiệp chung, tiếp tục cố gắng đạt được nhiều thành tựu hơn nữa khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, đặc biệt là công tác phòng ngừa, đấu tranh, chống tội phạm. Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần tiếp tục bám sát các chủ trương của Đảng pháp luật của Nhà nước, có quyết tâm chính trị cao trong công tác chỉ đạo xây dựng phương án tăng cường cơ sở vật chất, trụ sở, phương tiện và trang thiết bị làm việc cho các cấp. Phối hợp với các cơ quan bộ, ngành chức năng xây dựng các định mức, tiêu chuẩn phòng làm việc, trang thiết bị, phương tiện cho từng chức danh cán bộ theo đặc thù. Việc giải quyết các vụ án hình sự hiện nay đã và đang triển khai, áp dụng công nghệ thông tin vào việc lưu trữ, số hóa hồ sơ vụ án. Từ 01/01/2020, thực hiện thống nhất ghi âm, ghi hình khi hỏi cung bị can theo Quyết định số 1172/QĐ-TTg ngày 11/9/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án về cơ sở vật chất, bộ máy, cán bộ và lộ trình thực hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can theo quy định của
Đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán các cấp là người phải đối mặt trực tiếp với những khó khăn, thách thức, trở ngại cũng như các tác động tiêu cực khác trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến phẩm chất “cần, kiệm, liêm chính”, tận tụy trong công việc, “công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn” của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và các cán bộ tư pháp và đặc biệt là ảnh hưởng đến nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Một số nguy hiểm, khó khăn mà các cán bộ thường phải đối mặt là áp lực về công việc, áp lực từ dư luận xã hội, áp lực chính trị, thậm chí có thể đối mặt với những tình huống nguy hiểm đến tính mạng như sự chống đối, tấn công của các đối tượng phạm tội khi bị bắt, dẫn giải, bị can, bị cáo chống đối tại phiên tòa, đe dọa trả thù… Những khó khăn, thách thức trên có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến bản thân người tiến hành tố tụng cả về thể chất lẫn tinh thần. Mặc dù vậy, chế độ lương, thưởng cũng như mức phụ cấp của cán bộ, công chức vẫn còn thấp hơn so với mặt bằng chung của xã hội, tạo cơ hội này sinh vi phạm, tiêu cực, có thể xảy ra oan sai, bỏ lọt tội phạm. Để đảm bảo vụ án hình sự được xét xử công minh, hình phạt được quyết định chính xác, đúng quy định của pháp luật, đội ngũ người tiến hành tố tụng phải trong sạch, liêm khiết, có lương tâm nghề nghiệp. Các yếu tố khách quan đảm bảo là chế độ chính sách tiền lương phù hợp, công bằng với từng vị trí việc lập, công sức lao động thực tế của cán bộ, đãi ngộ hợp lý để động viên, khích lệ tinh thần cán bộ, để họ có thể sống được bằng lương, mức lương phải đảm bảo cho cuộc sống gia đình họ thì họ mới yên tâm cống hiến làm việc với tinh thần “phụng công thủ pháp, chí công vô tư” mà xã hội yêu cầu, tạo động lực hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.