Khi thực hiện các hoạt động liên quan đến đầu tư, phát triển quốc gia phải thực hiện việc chi ngân sách nhà nước. Vậy chi ngân sách Nhà nước là gì? Điều kiện chi ngân sách Nhà nước như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Chi ngân sách Nhà nước là gì?
Chi ngân sách Nhà nước là việc phân phối và sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước nhằm đảm bảo thực hiện chức năng của Nhà nước theo những nguyên tắc nhất định. Cơ cấu chi ngân sách Nhà nước là nội dung các khoản chi và tỉ trọng của các khoản chi trong tổng chi ngân sách Nhà nước.
2. Các điều kiện chi ngân sách Nhà nước theo Luật ngân sách Nhà nước :
a. Khoản chi dự định thực hiện phải có trong dự toán ngân sách được giao.
Lập dự toán ngân sách nhà nước là quá trình xây dựng và quyết định dự toán thu, chi ngân sách của nhà nước trong thời hạn 1 năm. Thực chất bản dự toán ngân sách nhà nước là những chương trình, kế hoạch hay chính sách của nhà nước trong một tài khóa xác định. Dự toán ngân sách rất quan trọng và khá phức tạp, trong đó bảo đảm tính thống nhất, toàn diện và tính cân đối: các khoản chi là mục tiêu phải thực hiện, các khoản thu là phương tiện để thực hiện các mục tiêu đó. Mỗi một khoản chi của ngân sách nhà nước đều hết sức quan trọng và nó tác động, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội…
Việc pháp luật quy định các khoản chi ngân sách nhà nước muốn được thanh toán, chi trả phải có trong dự toán ngân sách được giao là do mọi nhu cầu chi dự kiến cho năm kế hoạch phải được xác định trong dự toán kinh phí từ cơ sở thông qua các bước xét duyệt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ thấp đến cao. Quyết định cuối cùng cho dự toán chi ngân sách nhà nước thuộc về Quốc hội. Chỉ sau khi bản dự toán được Quốc hội thông qua mới trở thành căn cứ chính thức để phân bổ số chi cho mỗi ngành, mỗi cấp.
Hàng năm, các cơ quan đơn vị có sử dụng ngân sách nhà nước phải lập dự toán trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Dự toán ngân sách nhà nước của cả nước được Chính phủ tổng hợp trình Quốc hội quyết định. Quốc hội tiến hành phân bổ dự toán ngân sách trung ương; Hội đồng nhân dân các cấp phân bổ dự toán ngân sách của cấp mình. Dự toán chi ngân sách nhà nước được lập dựa vào các căn cứ:
Căn cứ vào nhiệm vụ cụ thể của các Bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan khác ở trung ương và các cơ quan nhà nước ở địa phương. Cơ chế phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách các cấp và tỷ lệ % phân chia các khoản thu và mức bổ sung cho ngân sách cấp dưới (trong năm tiếp theo của thời kỳ ổn định). Lập ngân sách nhà nước dựa trên các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức hiện hành về thu chi ngân sách nhà nước như chi tiền lương, sinh hoạt phí cho cán bộ, .… Đối với các cơ quan thụ hưởng ngân sách, việc lập dự toán ngân sách cho ngân sách của cơ quan phải dựa vào số kiểm tra về dự toán ngân sách được thông báo.
Quốc hội quyết định chi tiết một số nội dung quan trọng trong dự toán ngân sách nhà nước như tổng số chi ngân sách nhà nước trong đó có chi ngân sách trung ương và chi ngân sách địa phương, quyết định chi tiết theo các lĩnh vực chi đầu tư phát triển, chi trả nợ…. Có thể thấy rằng, đây là điều kiện ở cấp trung ương đối với các khoản chi. Bởi nó quy định khoản chi đó phải nằm trong dự toán ngân sách – đạo luật ngân sách thường niên mà chỉ cơ quan lập pháp cao nhất là Quốc hội có quyền thông qua.
Đối với Hội đồng nhân dân căn cứ vào nhiệm vụ thu, chi ngân sách được cấp trên giao và tình hình thực tế tại địa phương quyết định; dự toán chi ngân sách địa phương, quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết. Quy định này đảm bảo các khoản dự định chi sẽ phù hợp với tổng thể các khoản chi khác, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế – xã hội mà Nhà nước đề ra trong năm ngân sách.
Quy định này tạo ra sự công khai cho việc thực hiện chi ngân sách, tránh xảy ra những việc khoản chi bất minh, chi không rõ mục đích, chi quá gây ra những thất thoát lớn. Tuy nhiên nếu chỉ theo như đúng các khoản được chi trong dự toán được giao thì có khi lại gây ra những thiếu xót bởi không thể dự liệu được hết trước mọi vấn đề có thể xảy ra. Vì vậy mà nhà làm luật đã dự liệu thêm một số ngoại lệ (theo điều 52, 59 của Luật Ngân sách nhà nước)
+) Trường hợp đầu năm ngân sách, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa quyết định dự toán ngân sách, phương án phân bổ ngân sách thì cơ quan tài chính các cấp được phép tạm cấp kinh phí cho các nhu cầu không thể trì hoãn được( Mức tạm cấp hàng tháng tối đa không quá mức chi bình quân 01 tháng của năm trước, Chi nghiệp vụ phí và công vụ phí…) cho tới khi dự toán ngân sách và phương án phân bổ ngân sách được quyết định. Đây có thể coi là phương án bổ sung mà luật đưa ra cho các chủ thể sử dụng ngân sách áp dụng, tạo sự linh hoạt trong hoạt động của các chủ thể đó khi chưa có dự toán ngân sách, đảm bảo ứng phó kịp thời với các trường hợp xảy ra ngoài dự kiến, đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.
Tuy nhiên các chủ thể được tạm cấp kinh phí phải đảm bảo hoàn trả ngay khi dự toán ngân sách và phân bổ ngân sách được quyết định, nguồn vốn đã được chuyển về. Đây là quy định thể hiện sự linh hoạt của các nhà làm luật, tạo điều kiện để việc thực hiện nhiệm vụ của các đối tượng thụ hưởng ngân sách không bị gián đoạn.
+) Trong quá trình chấp hành ngân sách nhà nước, có sự thay đổi về thu chi, khoản chi từ nguồn tăng thu so với dự toán được giao và từ nguồn dự phòng ngân sách theo quyết định của cấp có thẩm quyền. Nguồn tăng thu là nguồn thu phát sinh tăng thêm, nằm ngoài dự toán ngân sách vì vậy chi từ khoản này cũng không thể nằm trong dự toán ngân sách. Chi từ nguồn tăng thu ở cấp ngân sách nào sẽ do cơ quan có thẩm quyền của cấp ngân sách đó quyết định. Số tăng thu này sẽ được sử dụng để giảm bội chi, tăng chi trả nợ, tăng chi đầu tư phát triển, bổ sung quỹ dự trữ tài chính, tăng dự phòng ngân sách. Còn các khoản chi từ nguồn dự phòng ngân sách được sử dụng trong trường hợp có nhu cầu chi đột xuất ngoài dự toán ngân sách.
Khoản chi ngoài dự toán này sẽ giúp giải quyết kịp thời vấn đề phát sinh đột xuất ngoài dự kiến. Trường hợp có nhu cầu chi đột xuất ngoài dự toán nhưng không thể trì hoãn được mà dự phòng ngân sách không đủ đáp ứng, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phải sắp xếp lại các khoản chi trong dự toán được giao hoặc sử dụng các nguồn dự trữ để đáp ứng nhu cầu chi đột xuất đó.
Đây là điều kiện đầu tiên, quan trọng và cơ bản nhất để thực hiện nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước.
b. Khoản chi dự định thực hiện phải đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp có thẩm quyền quyết định
Ngoài điều kiện thứ nhất là nằm trong dự toán ngân sách, trong một số trường hợp khác chi ngân sách nhà nước còn phải đáp thêm 1 số điều kiện về chế độ, tiêu chuẩn, định mức. Nhà nước ban hành các chế độ, định mức về chi ngân sách, tạo cơ sở để quản lý chi ngân sách, tạo cơ sở để quản lý chi ngân sách một cách khoa học và thống nhất. có hai loại định mức chi ngân sách nhà nước:
+ Định mức phân bổ ngân sách. Đây là căn cứ để xây dựng và phân bổ ngân sách cho các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ, cơ quan khác ở trung ương và các địa phương. Thẩm quyền quyết định mức phân bổ ngân sách theo chế độ hiện hành như sau:
Thủ tướng chính phủ quyết định định mức phân bổ ngân sách nhà nước làm căn cứ để xây dựng và phân bổ ngân sách cho các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ, cơ quan khác ở trung ương và các địa phương. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào định mức phân bổ ngân sách nhà nước do thủ tướng chính phủ ban hành, khả năng tài chính – ngân sách và đặc điểm tình hình ở địa phương, quyết định định mức phân bổ ngân sách làm căn cứ xây dựng dự toán và phân bổ ngân sách ở địa phương.
+ Định mức chi tiêu: Định mức chi tiêu là những chế độ, tiêu chuẩn làm căn cứ để thực hiện chi tiêu và kiểm soát chi tiêu ngân sách. Theo pháp luật hiện hành, thẩm quyền ban hành định mức chi tiêu như:
Chính phủ quyết định những chế độ ngân sách quan trọng, phạm vi ảnh hưởng rộng, liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế – xã hội của cả nước.
Thủ tướng chính phủ quyết định các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu thực hiện thống nhất trong cả nước.
Bộ trưởng Bộ tài chính quyết định chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách đối với các ngành lĩnh vực sau khi thống nhất với các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực.
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định chế độ chi ngân sách phù hợp với các đặc điểm thực tế, với một số nhiệm vụ chi có tính chất đặc thù ở địa phương mình trên cơ sở nguồn ngân sách địa phương được đảm bảo.
Các cơ quan có thẩm quyền ban hành các chế độ, định mức chi ngân sách phải được định kỳ rà soát lại các định mức tiêu chuẩn chi tiêu cho phù hợp với yêu cầu thực tế và nguồn lực ngân sách. Đồng thời, tiếp tục ban hành các chế độ, định mức chi theo nhu cầu thực tế.
Các quy định này đặt ra một giới hạn cho các khoản chi dự định thực hiện, phải nằm trong định mức đã được quy định trong dự toán. Bởi các chủ thể lập dự toán ngân sách nhà nước khi đưa ra bản dự toán với những khoản phân bổ ngân sách đã tính toán rất kỹ đến đặc thù từng lĩnh vực chi, và hơn thế là chiến lược kinh tế – xã hội đã được hoạch định. Vì vậy, các khoản chi phải phù hợp với chiến lược kinh tế – xã hội đã được xây dựng.
Việc xây dựng các định mức tiêu chuẩn, chế độ cũng rất quan trọng phải căn cứ trên các văn bản pháp luật do cơ qua co thẩm quyền ban hành và phải dựa trên con số liên quan trên thực thế ví dụ như tiêu chí xây dựng định mức: số biên chế đối với quản lý hành chính. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo: số học sinh. Sự nghiệp y tế: số giường bệnh, đối với chữa bệnh. Ngoài ra còn phân vùng và một số tiêu chí phụ như tỷ lệ chi cho con người và chi cho hoạt động.
Việc chi theo định mức, chế độ, tiêu chuẩn này tạo ra sự công bằng, chống thất thoát lãng phí tạp ra tính cụ thể trong khoản chi có định lưỡng rõ ràng. Đảm bảo chỉ đủ, chi đúng, hạn chế việc chi quá mức rồi lại xin cấp kinh phí, tăng cường tính tự chủ và năng động trong việc thực hiện khoản chi. Việc quy định định mức cho các khoản chi ngân sách có thể làm giảm tính chủ động của các đơn vị sử dụng ngân sách, hơn nữa có thể làm xuất hiện tình trạng các đơn vị sử dụng ngân sách chi cho hết số ngân sách đã được phân bổ, không quan tâm đến hiệu quả của khoản chi đó. Thêm vào đó việc xác định các định mức tiêu chuẩn, chế độ sao cho phù hợp là một vấn đề cần phải được quan tâm theo dõi và có những thay đổi sao cho phù hợp với từng giai đoạn, thời kì nhất định.
c. Khoản chi dự định thực hiện phải được Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy quyền quyết định chi.
Thủ trưởng đơn vị là người đứng đầu một cơ quan là người điều hành, nắm rõ mọi vấn đề cần thiết cái gì cần phải chi và chi như thế nào cho hợp lí phù hợp với định mức, tiêu chuẩn, chế độ, hoặc người được ủy quyền quyết định chi. Không những thế, với quy định này sẽ góp phần tăng cường hơn tính sáng tạo, tự chủ trong thực hiện ra những quyết định chi sao cho đạt được hiệu quả cao. Bởi nếu như quyết định chi sai, chi không đúng mục đích làm thất thoát thì người phải chịu trách nhiệm ở đây chính và trước tiên là thủ trưởng cơ quan hoặc có thể là người được ủy quyền quyết định chi.
Theo khoản 2 điều 38
Đối với những khoản chi do cơ quan tài chính cấp phát trực tiếp thì quyết định chi là “lệnh chi tiền” của cơ quan tài chính. Đối với các khoản chi cơ quan tài chính không cấp phát trực tiếp thì khi có nhu cầu chi, đơn vị sử dụng ngân sách lập và gửi Kho bạc nhà nước giấy rút dự toán ngân sách nhà nước cùng với quyết định chi do thủ trưởng đơn vị ký.
Trong trường hợp thủ thưởng cơ quan hay người được ủy quyền thực hiện chi mà kém năng lực hay chi một cách sai phạm thì sẽ có những hậu quả lớn có xử lí cũng chưa chắc phục hồi lại được hay thu về được số tiền thất thoát, việc này đòi hỏi phải có những cơ chế giám sát việc chi phải hiệu quả và hữu ích nhất và thủ trưởng hay người được ủy quyền đòi hỏi phải có năng lực làm việc tốt. Vai trò của thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách trong quá trình chi ngân sách là hết sức quan trọng.
Khoản chi được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy quyền quyết định chi. Điều này có nghĩa, chỉ người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền mới được phép quyết định chi. Pháp luật cũng quy định cụ thể về chế độ ủy quyền khi quyết định chi ngân sách nhà nước.
+ Cơ quan có thẩm quyền chung: Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp điều chỉnh các chỉ tiêu ngân sách nhà nước, giám sát hoạt động chi ngân sách của Chính Phủ, Ủy ban nhân dân các cấp.
Chính Phủ, thủ tướng chính phủ kiểm tra quá trình tuân thủ các chỉ tiêu ngân sách thông qua nguyên tắc chi ngân sách.
Ủy ban nhân dân chấp hành ngân sách nhà nước cấp mình và giám sát hoạt động chi cấp dưới.
+ Cơ quan có thẩm quyền riêng:
Cơ quan tài chính có chức năng quản lí chung đối với hoạt động chi ngân sách và chịu trách nhiệm về tính hiệu quả của việc sử dụng ngân sách nói chung. Qua đó giám sát tình hình sử dụng kinh phí ở các đơn vị sử dụng ngân sách và quyền đề nghi
tạm ngừng cấp phát khi đơn vị sử dụng ngân sách không tuân thủ pháp luật.
Cơ quan kho bạc nhà nước phải tuân thủ các điều kiện chi ngân sách và chịu trách nhiệm về các quyết định của mình.
Ngân hàng nhà nước cân đối ngân sách bằng việc “tạm ứng cho NSNN để xử lí thiếu hụt tạm thời của quỹ ngân sách nhà nước theo Quyết định của thủ tướng chính phủ”.
Có thể thấy khi đáp ứng đủ với 3 điều kiện trên thì việc chi ngân sách nhà nước sẽ dễ dàng được thực hiện và 3 điều kiện trên cũng có sự phân tầng về cả thẩm quyền từ cao đến thấp. Việc quy định những điều kiện này cho thấy đảm bảo được sự liên kết từ cấp cao nhất đến thấp nhất mà lại có sự phân công rõ ràng không có sự chồng chéo với nhau.
d. Các điều kiện cụ thể khác.
Theo Khoản 4, khoản 5 Điều 34 Nghị định 163/2016/NĐ-CP.
“4. Các nhiệm vụ chi có tính chất thường xuyên phải chia đều trong năm để chi; các nhiệm vụ chi đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm, sửa chữa lớn và các khoản chi không thường xuyên khác được đảm bảo nguồn thanh toán theo tiến độ thực hiện và trong phạm vi dự toán được giao.
5. Chi ngân sách nhà nước thực hiện theo nguyên tắc thanh toán trực tiếp từ Kho bạc Nhà nước cho người hưởng lương, phụ cấp, trợ cấp và người cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Trường hợp một số khoản chi chưa có đủ điều kiện thực hiện việc thanh toán trực tiếp từ Kho bạc Nhà nước, đơn vị sử dụng ngân sách được tạm ứng kinh phí để chủ động chi theo dự toán được giao, sau đó đơn vị thanh toán với Kho bạc Nhà nước theo đúng quy định của Bộ Tài chính.
Đây chính là khoản chi hành chính đảm bảo cho hoạt động thường xuyên của bộ máy nhà nước, từ đó thực hiện khoản chi hợp pháp, đúng đắn và minh bạch để tránh trường hợp giá cả báo cáo không rõ rang tạo ra sự thất thoát.
Quy định này đưa ra nhằm đảm bảo thêm tính rõ ràng và phù hợp với dự toán năm của những khoản chi không mang tính chất thường xuyên đối với các đơn vị dự toán cấp dưới. Đối với những khoản chi có tính chất thường xuyên ( là khoản thu mang tính định kì) thì quy định này đảm bảo cho thực hiên chi một cách đầy đủ và đúng đắn nhất.
Tuy đây không phải là điều kiện chính nhưng cũng là điều kiện rất cần thiết. Nó tạo cơ sở chắc chắn, cụ thể, chính xác cho các khoản chi khi thực hiện vì đã có chứng từ, hóa đơn kèm theo. Hơn nữa, việc này sẽ tạo ra các đối tượng sử dụng ngân sách một thói quen sử dụng chứng từ khi có các nhu cầu chi phát sinh, đảm bảo tính minh bạch cho những khoản chi, và còn dễ dàng hơn cho việc thống kê hay điều tra.
Hiện nay chi NSNN đã từng bước được cơ cấu lại theo hướng thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tăng cho đầu tư cho phát triển xã hội và cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, xóa đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp và nông thôn, bảo vệ môi trường, nâng cao năng lực quản lý, đảm bảo chi ngân sách ngày càng tiết kiệm và đạt hiệu quả cao.
3. Trách nhiệm kiểm soát các khoản chi ngân sách nhà nước:
Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Hoạt động kiểm soát chi ngân sách nhà nước là một công vụ đặc biệt quan trọng của nhà nước trong quá trình quản lý ngân sách nhà nước nhằm thực hiện tốt hoạt động chi ngân sách nhà nước, giữ gìn kỷ luật tài chính, tránh tình trạng tham nhũng, lãng phí ngân sách nhà nước
Vai trò, trách nhiệm kiểm soát chi ngân sách nhà nước là trách nhiệm của các ngành, các cấp, các cá nhân và tổ chức, song theo quy định pháp luật ngân sách được giao trực tiếp cho các cơ quan, cá nhân, tổ chức sau:
3.1. Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước:
Khoản 2, 4 Điều 38 Nghị định 163/2016/NĐ-CP của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách nhà nước quy định thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách có trách nhiệm:
“Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách chịu trách nhiệm về việc quản lý, sử dụng ngân sách theo dự toán được giao bảo đảm hiệu quả, tiết kiệm, đúng chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách; định kỳ, báo cáo đánh giá kết quả thực hiện dự toán ngân sách được giao cho cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp.:
… thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn được giao trong lĩnh vực tài chính – ngân sách và chịu trách nhiệm về những sai phạm thuộc phạm vi quản lý theo quy định của pháp luật.”
Như vậy, thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách căn cứ vào thông báo dự toán ngân sách nhà nước, chủ động bố trí, sử dụng kinh phí chi thường xuyên để thực hiện chế độ tự chủ theo các nội dung, yêu cầu công việc được giao cho phù hợp để hoàn thành nhiệm vụ, đảm bảo tiết kiệm và có hiệu quả.
3.2. Kho bạc nhà nước:
Kho bạc nhà nước là cơ quan có hoạt động chủ yếu là quản lý nhà nước về quỹ ngân sách nhà nước và huy động vốn cho ngân sách nhà nước.
a) Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách quyết định chi gửi Kho bạc Nhà nước để thực hiện;
b) Cơ quan tài chính cấp dưới thực hiện rút số bổ sung từ ngân sách cấp trên tại Kho bạc Nhà nước. “
Trước khi thanh toán, chi trả Kho bạc nhà nước kiểm tra hồ sơ chi của đơn vị sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước.
Trong quá trình kiểm soát, quản lý hồ sơ chi của các đơn vị sử dụng ngân sách, nếu phát hiện có sai sót, khoản chi không đúng mục đích, đối tượng theo dự toán được phê duyệt, không đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu hoặc các điều kiện khác theo quy định của pháp luật, Kho bạc nhà nước sẽ từ chối cấp phát thanh toán
Sau khi chi, Kho bạc nhà nước kiểm tra tình hình sử dụng kinh phí của đơn vị sử dụng Ngân sách nhà nước sau khi đã xuất quỹ ngân sách nhà nước, Kho bạc nhà nước kiểm tra tồn quỹ ngân sách nhà nước của cấp ngân sách tương ứng với khoản chi.
3.3. Cơ quan tài chính:
Đối với hoạt động kiểm soát các khoản chi ngân sách nhà nước, cơ quan tài chính có vai trò và trách nhiệm sau:
Trước hết, cơ quan tài chính lập và tổng hợp dự toán chi ngân sách nhà nước của các bộ, ngành, địa phương.
Cơ quan tài chính thẩm tra việc phân bổ dự toán ngân sách cho các đơn vị sử dụng ngân sách trước khi thông báo hạn mức chi hàng quý cho đơn vị thụ hưởng, khi có những khoản chi trong dự toán chưa đúng chế độ, tiêu chuẩn, hợp lý chưa phù hợp với ngân sách và định hướng phát triển kinh tế- xã hội, các cơ quan tài chính có quyền yêu cầu bố trí lại từng khoản chi.
Cơ quan tài chính có nghĩa vụ bảo đảm bố trí nguồn để đáp ứng các nhu cầu chi; trong đó có việc huy động các nguồn vay tạm thời để bảo đảm thực hiện việc kiểm soát chi theo đúng quy định của pháp luật
Cơ quan tài chính còn có quyền kiểm tra quá trình cấp phát, phân phối và sử dụng ngân sách nhà nước của cơ quan quản lý cấp phát; kiểm tra việc sử dụng kinh phí ở các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước. trường hợp phát hiện các khoản chi tiêu vượt nguồn cho phép, sai chính sách chế độ hoặc cơ quan tài chính phát hiện ra có những hành vi không chấp hành đúng chế độ báo cáo thì cơ quan tài chính có quyền yêu cầu Kho bạc nhà nước tạm ngừng thanh toán. Trường hợp phát hiện việc chấp hành dự toán của các đơn vị sử dụng ngân sách chậm hoặc không phù hợp làm ảnh hưởng kết quả nhiệm vụ, thì có quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước và đơn vị dự toán cấp trên có giải pháp kịp thời hoặc điều chỉnh nhiệm vụ, dự toán chi của các cơ quan, đơn vị trực thuộc để bảo đảm thực hiện ngân sách theo mục tiêu và tiến độ quy định.
Đối với những khoản chi ngân sách nhà nước mà cơ quan tài chính quyết định chi bằng hình thức “lệnh chi tiền”, thì chịu trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát nội dung, tính chất của từng khoản, bảo đảm các khoản chi này phải bảo đảm tính chất, điều kiện và đúng đối tượng theo quy định của pháp luật.