Mỗi khi mùa giải thế thao lớn của thế giới bắt đầu như World Cup, UEFA Champions League..., hành vi cá độ bóng đá là một trong những hành vi vi phạm pháp luật lại diễn ra vô cùng phổ biến. Dưới đây là bài viết về vấn đề cá độ bóng đá có phải là giao dịch dân sự vô hiệu hay không?
Mục lục bài viết
- 1 1. Cá độ bóng đá có phải là giao dịch dân sự vô hiệu hay không?
- 2 2. Các trường hợp giao dịch vô hiệu:
- 2.1 2.1 Giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội (Điều 123):
- 2.2 2.2 Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo (Điều 124):
- 2.3 2.3. Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện (Điều 125):
- 2.4 2.4. Giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn (Điều 126):
- 2.5 2.5. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa hoặc bị cưỡng ép (Điều 127):
- 2.6 2.6. Giao dịch dân sự vô hiệu do người không nhận thức, làm chủ hành vi của mình xác lập (Điều 128):
- 2.7 2.7. Giao dịch dân sự vô hiệu do không đúng về hình thức (Điều 129):
- 3 3. Hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu:
1. Cá độ bóng đá có phải là giao dịch dân sự vô hiệu hay không?
Điều 116, BLDS 2015 quy định giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Giao dịch dân sự ở Việt Nam được hiểu là sự kiện pháp lý làm phát sinh hậu quả pháp lý. Sự kiện này phải đáp ứng 4 yêu cầu pháp lý cơ bản để có hiệu lực:
– Các bên có năng lực pháp luật dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập
– Các bên tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện
– Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội
– Hình thức giao dịch theo quy định của pháp luật.
Do đó, khi sự kiện pháp lý thuộc một trong các trường hợp pháp luật quy định giao dịch vô hiệu thì giao dịch này không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
Cá độ bóng đá là hành vi vi phạm pháp vì vậy giao dịch này vi phạm quy định về mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Cá độ bóng đá bị pháp luật nghiêm cấm dưới mọi hình thức. Người thực hiện hành vi cá độ bóng đá sẽ có thể bị xử phạt vi phạm hành chính và truy cứu trách nhiệm hình sự.
Như vậy có thế thấy hành vi cá độ bóng đá bị pháp luật nghiêm cấm nên đây là căn cứ làm vô hiệu giao dịch dân sự đã xác lập giữa các bên trước đó. Đồng thời, căn cứ Điều 131 BLDS 2015 có quy định về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu khi giao dịch dân sự vô hiệu đã được xác định là vô hiệu thì sẽ không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
2. Các trường hợp giao dịch vô hiệu:
2.1 Giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội (Điều 123):
Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội đều vô hiệu.
Ở đây, điều cấm của pháp luật được hiểu là quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện hành vi nhất định còn đạo đức xã hội là những chuẩn mực xử sự chung giữa con người với nhau trong đời sống xã hội được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
Giao dịch này đương nhiên bị coi là vô hiệu không phụ thuộc vào ý chí của các bên tham gia giao dịch. Tài sản, lợi tức phát sinh từ giao dịch đó có thể bị tịch thu sung quỹ nhà nước.
2.2 Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo (Điều 124):
Nếu các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này, luật có liên quan.
Nếu các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm trốn tránh trách nhiệm với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu.
Điều này xảy ra khá phổ biến khi một bên trốn tránh nghĩa vụ trả nợ bằng cách chuyển nhượng tài sản (thông qua hợp đồng tặng cho) cho người khác. Tuy nhiên, trên thực tế, hợp đồng tặng cho không làm phát sinh quyền của bên tặng cho thì hợp đồng đó vô hiệu.
2.3. Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện (Điều 125):
Ngoại trừ các trường hợp sau đây:
– Người dưới 6 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày;
– Đối với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền. hoặc chỉ từ bỏ nghĩa vụ của họ;
– Khi bên đã đến hạn hoặc khôi phục năng lực hành vi dân sự thì giao dịch mới được thừa nhận
2.4. Giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn (Điều 126):
Khi có sự nhầm lẫn trong giao dịch dân sự làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích xác lập giao dịch đó và các bên không khắc phục thì giao dịch đó vô hiệu.
Lỗi là khi các bên hiểu sai nội dung giao dịch mà mình tham gia, gây thiệt hại cho một trong hai bên. Nếu bên có lỗi chứng minh được là vô ý thì giao dịch có thể bị tuyên bố vô hiệu.
Tuy nhiên, nếu lỗi do ý chí của một bên thì giao dịch vô hiệu do bị lừa dối.
2.5. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa hoặc bị cưỡng ép (Điều 127):
“Lừa dối” ở đây là hành vi cố ý của một bên nhằm làm cho bên kia hiểu sai về (i) chủ thể; (ii) bản chất của đối tượng; (iii) nội dung của giao dịch.
“Đe dọa”, “cưỡng bức” là hành vi cố ý của một bên; buộc bên kia tham gia giao dịch; nếu không sẽ phải chịu những thiệt hại về: tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản hoặc của người thân thích.
Các giao dịch này chỉ bị vô hiệu khi có yêu cầu của bên bị lừa dối đến Tòa án và bị Tòa án tuyên bố vô hiệu.
2.6. Giao dịch dân sự vô hiệu do người không nhận thức, làm chủ hành vi của mình xác lập (Điều 128):
Khi thực hiện giao dịch dân sự, người không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu.
2.7. Giao dịch dân sự vô hiệu do không đúng về hình thức (Điều 129):
Về cơ bản, các bên được tự do lựa chọn hình thức giao dịch. Tuy nhiên, có một số giao dịch mà pháp luật quy định phải lập thành văn bản, được chứng thực, đăng ký hoặc xin phép nhưng các bên không tuân thủ quy định này.
Các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu được pháp luật quy định rõ ràng, đảm bảo hiệu quả thi hành của pháp luật và quyền lợi hợp pháp của các bên theo quy định.
3. Hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu:
Khi giao kết hợp đồng, các bên có thể tự do bổ sung các nghĩa vụ ràng buộc lẫn nhau. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam vẫn có quy định về những thỏa thuận vượt quá giới hạn nhất định có thể làm vô hiệu hợp đồng đó.
Tuỳ theo tính chất, mức độ của phần vô hiệu, hợp đồng vô hiệu có thể chia thành hai loại: giao dịch dân sự vô hiệu và giao dịch dân sự vô hiệu từng phần.
Trong giao dịch vô hiệu từng phần, sự vô hiệu của một số điều khoản và điều kiện trong hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần khác của hợp đồng.
Trong phạt vi phạm, bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm nộp phạt vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận, trừ trường hợp miễn trách nhiệm do
Mức phạt vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc mức phạt tổng hợp đối với nhiều hành vi vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng nhưng không vượt quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp trường hợp hợp đồng dịch vụ giám định mà chứng thư giám định do người thực hiện giám định cấp không đúng theo quy định của pháp luật về thương mại.
Bên bị vi phạm không phải lúc nào cũng có quyền yêu cầu hình phạt từ bên vi phạm. Trường hợp các bên không có thỏa thuận về phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp luật Thương mại có quy định khác.
Chỉ khi có thỏa thuận về phạt vi phạm giữa các bên thì bên bị vi phạm mới có quyền áp dụng cả hai chế tài phạt vi phạm hợp đồng là phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật thương mại có quy định khác.
Các thiệt hại phải bao gồm giá trị vật chất và tổn thất trực tiếp mà bên bị vi phạm phải gánh chịu do hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm gây ra, cũng như lợi nhuận trực tiếp mà bên bị vi phạm lẽ ra đã thu được nếu vi phạm đó không được thực hiện. .
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố sau:
– Vi phạm hợp đồng;
– Tổn thất vật chất;
– Vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tổn thất.
Trên thực tế, việc yêu cầu bồi thường thiệt hại khá khó khăn. Ngay cả khi bên bị vi phạm đã chứng minh được việc vi phạm hợp đồng là do bên vi phạm gây ra thì Luật Thương mại Việt Nam vẫn yêu cầu phải chứng minh và chỉ rõ mức độ thiệt hại vật chất và lợi nhuận trực tiếp mà bên bị vi phạm có thể thu được nếu vi phạm. một vi phạm đã không được thực hiện.
Vì vậy, khi thực hiện các giao dịch dân sự, các bên cần xác định rõ quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, các điều khoản về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại khi xảy ra tổn thất và thế nào là tổn thất vật chất theo thỏa thuận.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết: Bộ luật Dân sự năm 2015