Gần đây, Luật Dương Gia nhận về được nhiều câu hỏi liên quan đến việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Điển hình là bồi thường thiệt hại trong trường hợp tài sản vô chủ gây ra. Bài viết dưới đây sẽ giải đáp một số thắc mắc của quý bạn đọc, cùng tìm hiểu nhé
Mục lục bài viết
- 1 1. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp tài sản vô chủ gây ra:
- 2 2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tài sản gây ra thiệt hại là gì?
- 3 3. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân:
- 4 4.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chiếm hữu, sử dụng tài sản:
1. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp tài sản vô chủ gây ra:
Theo quy định hiện nay thì việc chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu tài sản chính là quyền của họ trong việc định đoạt tài sản.
Tuy nhiên, hậu quả của việc từ bỏ quyền sở hữu tài sản sẽ dẫn đến tài sản đó trở sẽ thành tài sản vô chủ. Do đó, nếu trường hợp khi tài sản vô chủ gây thiệt hại, việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng là một vấn đề pháp lý quan trọng cần đặt ra.
Hiện nay, tại Bộ luật dân sự năm 2015 cũng không quy định về trường hợp này. Tuy nhiên, thông qua cách hiểu và đã nghiên cứu, trong trường hợp tài sản vô chủ mà gây thiệt hại thì việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường được đặt ra trong các trường hợp sau:
Đối với trường hợp thứ nhất: Nếu trường hợp xác định được người từ bỏ quyền sở hữu thì người đó sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu việc từ bỏ quyền sở hữu vi phạm quy định pháp luật có liên quan. Điều này xuất phát từ nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu theo quy định tại khoản 2 Điều 160 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định chủ sở hữu sẽ được thực hiện mọi hành vi dựa theo ý chí của mình đối với tài sản trong đó kể cả quyền từ bỏ quyền sở hữu nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Tuy nhiên, dựa theo nguyên tắc này thì nếu chủ sở hữu đã biết việc từ bỏ quyền sở hữu có thể gây thiệt hại cho chủ thể khác mà vẫn thực hiện hành vi từ bỏ đó thì sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp này là do hành vi trái pháp luật gây ra.
Trường hợp thứ hai: Nếu trường hợp không xác định được ai là người đã từ bỏ quyền sở hữu hoặc phát hiện được người đã từ bỏ quyền sở hữu nhưng xem xét việc từ bỏ không vi phạm nguyên tắc chung về thực hiện quyền sở hữu thì người đã từ bỏ quyền sở hữu tài sản thì sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Đối với nguyên tắc này có thể hiểu, bản thân người từ bỏ quyền sở hữu hiện đã không còn là chủ sở hữu của tài sản, nên họ không phải chịu trách nhiệm liên quan đến tài sản. Khi đó, người bị thiệt hại phải chịu rủi ro đối với thiệt hại xảy ra.
Như vậy, căn cứ theo quy định nêu trên thì cần xem xét hai tiêu chí để xác minh chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tài sản gây ra thiệt hại là gì?
Căn cứ theo quy định tại Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại như sau:
– Đối với người nào có hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải có trách nhiệm bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
– Trường hợp người gây thiệt hại sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu trong trường hợp thiệt hại phát sinh đó là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
– Nếu trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này.”
Như vậy, căn cứ theo quy định trên thì nếu không chứng minh được các nguyên nhân gây ra thiệt hại, thì có thể sẽ kết luận tự bản thân tài sản đã gây ra thiệt hại và đó là trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tài sản gây ra thiệt hại.
3. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân:
Căn cứ theo quy định tại Điều 586 Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân như sau:
– Người từ đủ mười tám tuổi trở lên nếu gây thiệt hại thì sẽ phải tự bồi thường đối với thiệt hại đã gây ra.
– Người chưa đủ mười lăm tuổi trường hợp gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ sẽ là người có trách nhiệm phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu trường hợp tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này.
– Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi nếu trường hợp gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu như không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
– Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi nếu trường hợp gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó sẽ được dùng tài sản của người được giám hộ để thực hiện trách nhiệm bồi thường; nếu trường hợp người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ sẽ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
Như vậy, căn cứ theo quy định trên thì trường hợp gây ra thiệt hại thì dựa vào năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại để xác định người có trách nhiệm phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
4.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chiếm hữu, sử dụng tài sản:
Chiếm hữu đó là việc chủ thể có thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản.
Quyền sử dụng được hiểu là quyền khai thác các công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Quyền sử dụng còn bao gồm các quyền như quyền lựa chọn cách sử dụng tài sản và quyền không sử dụng tài sản.
Căn cứ theo quy định tại Điều 165 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về việc Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong trường hợp sau đây:
– Chủ sở hữu chiếm hữu về tài sản;
– Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý về tài sản;
– Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật hiện nay;
– Người phát hiện ra tài sản và giữ các tài sản vô chủ, những tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, những tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, hoặc bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan;
– Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, những vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan;
– Trường hợp khác do pháp luật quy định.
Nếu trường hợp việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định các trường hợp trên thì đó được coi là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
Người nhận chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản thường được xác định là người có đủ năng lực xác lập và thực hiện giao dịch nên họ sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên, căn cứ để xác định bồi thường thiệt hại phụ thuộc vào thỏa thuận giữa họ với chủ sở hữu tài sản.
Nếu trong trường hợp khi chuyển giao tài sản, chủ sở hữu và người được chuyển giao đã có thỏa thuận thì việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ do tài sản gây ra sẽ căn cứ vào thỏa thuận đó.
Nếu trường hợp giữa chủ sở hữu và người được chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản không có thỏa thuận về việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì nếu trường hợp khi tài sản gây thiệt hại, người được giao chiếm hữu, sử dụng tài sản sẽ phải bồi thường thiệt hại.
Văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự 2015.