Bồi thường khi va chạm xe đạp đi không đúng làn. Gây tai nạn giao thông khi cả hai bên đều có lỗi thì ai là người bồi thường thiệt hại?
Tóm tắt câu hỏi:
Chào luật sư. Hồi 11h45′ Ngày 16/01/2016 tôi đang điều khiển xe gắn máy trên đường đi làm tôi có va chạm với 1 người điều khiển xe đạp. Tôi điều khiển ở tốc độ 40km/h đi đúng chiều lưu thông, người đi xe đạp qua trái đường không có dấu hiệu xin qua đường (qua đại) tôi có bấm kèn báo để tránh nhưng họ vẫn cố đạp nhanh để qua. Tôi tránh vào lề đường nhưng chẳng may bánh trước xe đạp vướng vào đũa thắng trước xe tôi dẫn tới hậu quả là người đi xe đạp bị ngã xuống đường còn tôi thì lao xe lên vỉa hè may mắn tránh kịp cột điện trước mặt nên tôi không bị gì, người nhà của người đi xe đạp bắt tôi bồi thường thiệt hại cho người nhà của họ. Tôi đã chấp nhận đưa người bị té đi bệnh viện khám để chữa cho họ. Làm thủ tục xong đóng tiền viện phí xong bác sĩ cho đi chụp x quang phát hiện gãy xương đòn bắt nhập viện điều trị tôi vẫn chấp nhận. Xong người nhà của người họ không chấp nhận nhập viện (bệnh viện lê lợi TP.Vũng tàu ). Bắt tôi phải đưa cho họ 10 triệu đồng hoặc giữ xe máy của tôi để họ đưa người nhà đi TP HCM điều trị. Xong mới tính tiếp. Nhưng sau thời gian thương lượng thì tới 15h cùng ngày nhà họ bắt tôi phải đưa 5 triệu đồng cùng giấy đăng ký xe gắn máy và chứng minh nhân dân và bắt tôi phải viết
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Theo nội dung trình bày của bạn (trình bày từ một phía) nên để đảm bảo chính xác về lỗi và xác định trách nhiệm sẽ dựa vào biên bản điều tra tai nạn giao thông của cảnh sát giao thông để làm căn cứ.
Xảy ra hai trường hợp để xác định trách nhiệm:
Trường hợp 1: Nếu bên bạn có lỗi khi tham gia giao thông
+ Trách nhiệm hành chính: Sẽ bị xử phạt theo lỗi mà bạn vi phạm
+ Trách nhiệm dân sự: Phải bồi thường cho bên bị thiệt hại về sức khỏe theo quy định của “
“Điều 609. Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm
1. Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.
2. Người xâm phạm sức khoẻ của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định”.
>>> Luật sư
+ Trách nhiệm hình sự: Nếu có lỗi gây ra thiệt hại cho người khác, mức thiệt hại được áp dụng làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định cụ thể trong quy định của Điều 3 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC
+ Làm chết một người;
+ Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;
+ Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% đến 100%;
+ Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
+ Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người, với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
+ Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.
Nếu thuộc những trường hợp trên sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định Điều 202 Bộ luật hình sự quy định:
“Điều 202. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ
1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;
b) Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác;
c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;
d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;
đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.
Trường hợp 2: Bạn không có lỗi
Nếu bạn không có lỗi trong việc va chạm, bạn không phải chịu trách nhiệm theo những nội dung trên. Bạn chỉ hỗ trợ một phần nhất định đối với bên bị thiệt hại về sức khỏe.