Với giải Câu 3 trang 119 Sách bài tập Lịch sử lớp 10 Chân trời sáng tạo chi tiết trong Bài 18: Văn minh Đại Việt giúp học sinh dễ dàng xem và so sánh lời giải từ đó biết cách làm bài tập trong Sách bài tập Lịch sử 10. Mời các phụ huynh và các em học sinh đón xem:
Mục lục bài viết
- 1 1. Bộ máy nhà nước chuyên chế trung ương tập quyền của Đại Việt được hoàn chỉnh dưới triều đại nào?
- 2 2. Sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước thời Lê Sơ:
- 3 3. Tổ chức quân đội dưới thời Lê Sơ:
- 4 4. Tổ chức luật pháp dưới thời Lê Sơ:
- 5 5. Tổ chức văn hóa – giáo dục dưới thời Lê Sơ:
- 6 6. Tổ chức kinh tế – xã hội dưới thời Lê Sơ:
1. Bộ máy nhà nước chuyên chế trung ương tập quyền của Đại Việt được hoàn chỉnh dưới triều đại nào?
A. Thời Lê sơ.
B. Thời Hồ.
C. Thời Trần.
D. Thời Lý.
Đáp án đúng: A
SGK Lịch sử 10, nội dung Văn minh Đại Việt. Bộ máy nhà nước chuyên chế trung ương tập quyền của Đại Việt được hoàn chỉnh dưới triều đại thời Lê sơ.
2. Sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước thời Lê Sơ:
Tổ chức bộ máy nhà nước thời Lê Sơ có thể được thể hiện bằng sơ đồ sau đây:
Có thể nói rằng, bộ máy nhà nước triều Lê Sơ đã đạt đến đỉnh cao và là bộ máy nhà nước hoàn chỉnh, chi tiết nhất trong số các triều đại phong kiến Việt Nam. Cụ thể, có thể phân tích bộ máy nhà nước triều Lê Sơ trên các lĩnh vực chính trị (chính quyền), quân đội, luật pháp, văn hóa – giáo dục và kinh tế – xã hội.
Ngay sau khi quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, khôi phục quốc hiệu là Đại Việt và bắt tay xây dựng lại đất nước.
Chính quyền phong kiến dưới thời Lê Sơ rất phát triển và hoàn thiện nhất dưới thời Lê Thánh Tông trị vì. Đối với bộ máy chính quyền, đứng đầu triều đình là vua. Vua trực tiếp nắm mọi quyền hành, kể cả chức tổng chỉ huy quân đội. Giúp việc cho vua có các quan đại thần. Ở triều đình có sáu bộ : Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công. Ngoài ra, còn có một số cơ quan chuyên môn như Hàn lâm viện (soạn thảo công văn), Quốc sử viện (viết sử), Ngự sử đài (can gián vua và các triều thần).
Dưới thời Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, cả nước chia làm 5 đạo; từ thời Thánh Tông, được chia lại thành 13 đạo thừa tuyên. Đứng đầu mỗi đạo thừa tuyên là ba ti phụ trách ba mặt hoạt động khác nhau của mỗi đạo. Dưới đạo có phủ, châu, huyện và xã.
13 đạo thừa tuyên dưới thời Lê Sơ gồm: Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, An Bang, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Quảng Nam và một phủ Trung Đô (Thăng Long).
3. Tổ chức quân đội dưới thời Lê Sơ:
Dưới thời Lê Sơ, các chính sách, chế độ về quân đội đã được phát triển và kiện toàn. Nhà nước nắm độc quyền trong tổ chức lực lượng quân sự. Toàn bộ quân đội trên cả nước được đặt dưới sự thống nhất của triều đình mà đại diện là nhà vua. Dưới thời Lê sơ, các vương hầu, quý tộc không có quyền tổ chức quân đội riêng như dưới thời Trần.
Đặc biệt, nhà Lê sơ luôn nêu cao quan điểm “bách tính giai vi binh” (trăm họ đều là lính). Chính vì vậy, nhà Lê đã triển khai nhiều chính sách, chế độ binh lính. Đến thời Lê Thánh Tông, những quy định này trở thành thể chế: Nhà nào 3 đinh thì một người đồ bổ làm lính tráng, một người bổ hạng quân, một người bổ hạng dân. Nhà nào 4 đinh thì hai người bổ hạng quân, hai người bổ hạng dân.
Nhà Lê sơ cũng đặc biệt chú ý đến các vấn đề biên viễn và vai trò của đồng bào các dân tộc thiểu số, có những chính sách thích hợp, kịp thời để khai thác sức mạnh của nhân dân trong công tác bảo vệ biên cương của Tổ quốc.
Quân đội thời Lê sơ được tổ chức theo chế độ “ngụ binh ư nông”; khi đất nước có ngoại xâm thì tất cả quân lính đều tại ngũ chiến đấu cùng toàn dân; khi hòa bình thì thay phiên nhau về làm ruộng. Quân đội có hai bộ phận chính: quân ở triều đình và quân ở các địa phương; bao gồm bộ binh, thủy binh, tượng binh, kị binh. Vũ khí có đao, kiếm, giáo, mác, cung tên, hỏa đồng, hỏa pháo. Hằng năm, quân lính được luyện tập võ nghệ, chiến trận. Vùng biên giới đều có bố trí quân đội mạnh canh phòng và bảo vệ, không để xâm lấn.
4. Tổ chức luật pháp dưới thời Lê Sơ:
Dưới thời các vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, pháp luật đã được chú ý xây dựng. Vua Lê Thánh Tông cho biên soạn và ban hành một bộ luật mới gọi là bộ Quốc triều hình luật hay Luật Hồng Đức. Nội dung chính của bộ luật là bảo vệ quyền lợi của vua, hoàng tộc; bảo vệ quyền lợi của quan lại và giai cấp thống trị, địa chủ phong kiến. Đặc biệt, bộ luật có những điều luật bảo vệ chủ quyền quốc gia, khuyến khích phát triển kinh tế, gìn giữ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, bảo vệ một số quyền lợi của phụ nữ.
Có thể nói đây là một bước tiến lớn trong tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam. Bộ luật Hồng Đức đã có những tư tưởng, điều luật đổi mới vô cùng tân tiến so với thời kì phong kiến và so với các triều đại trước.
5. Tổ chức văn hóa – giáo dục dưới thời Lê Sơ:
Ngay sau khi lên ngôi vua, Lê Thái Tổ cho dựng lại Quốc tử giám ở kinh thành Thăng Long, mở trường học ở các lộ, mở khoa thi và cho phép người nào có học đều được dự thi. Đa số dân đều có thể đi học, đi thi trừ những kẻ phạm tội và làm nghề ca hát. Ở các đạo, phủ có trường công. Nhà nước tuyển chọn người giỏi, có đạo đức để làm thầy giáo. Nội dung học tập thi cử là các sách của đạo Nho. Thời Lê sơ, Nho giáo chiếm địa vị độc tôn; Phật giáo, Đạo giáo bị hạn chế.
Thời Lê sơ (1428 – 1527) tổ chức được 26 khoa thi tiến sĩ, lấy đỗ 989 tiến sĩ, 20 trạng nguyên. Riêng thời vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497) tổ chức được 12 khoa thi tiến sĩ, lấy đỗ 501 tiến sĩ, 9 trạng nguyên.
Bên cạnh đó, văn học phát triển mạnh mẽ cả trên địa hạt chữ Hán và chữ Nôm, với các tác phẩm nổi tiếng như Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Quỳnh uyển cửu ca, Quốc âm thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập,… Sử học, Địa lý, Toán học, Y học, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và hội họa cũng vô cùng phát triển và đạt được những thành tựu rực rỡ.
6. Tổ chức kinh tế – xã hội dưới thời Lê Sơ:
Trong hơn hai mươi năm dưới ách đô hộ của nhà Minh, nước ta đã lâm vào tình trạng điêu tàn, bị tàn phá về mọi mặt. Ruộng đồng bị bỏ hoang, các làng nghề tan tác, đời sống nhân dân cực khổ. Để khắc phục tình trạng ấy, triều Lê Sơ đã có nhiều biện pháp xây dựng lại kinh tế – xã hội, cụ thể là:
Đối với nông nghiệp, để nhanh chóng phục hồi và phát triển nông nghiệp, vua Lê Thái Tổ cho 25 vạn lính (trong tổng số 35 vạn) về quê làm ruộng ngay sau chiến tranh. Còn lại 10 vạn người được chia làm 5 phiên thay nhau về quê sản xuất. Nhà Lê kêu gọi nhân dân phiêu tán trở về quê hương làm ruộng, đặt ra một số chức quan chuyên lo về nông nghiệp như Khuyến nông sứ, Hà đê sứ, Đồn điền sứ, định lại chính sách chia ruộng đất công làng xã gọi là phép quân điền, cấm giết trâu bò bừa bãi, cấm điều động dân phu trong mùa cấy gặt. Để khai phá vùng đất bồi ven biển, nhà Lê đắp nhiều con đê ngăn nước mặn có kè đá chắc chắn.
Đối với công thương nghiệp, các ngành, nghề thủ công truyền thống ở các làng xã như kéo tơ, dệt lụa, đan lát, làm nón, đúc đồng, rèn sắt, làm đồ gốm… ngày càng phát triển. Nhiều làng thủ công chuyên nghiệp nổi tiếng ra đời. Thăng Long là nơi tập trung nhiều ngành nghề thủ công nhất. Các làng thủ công chuyên nghiệp nổi tiếng như Hợp Lễ, Chu Đậu (Hải Dương), Bát Tràng (Hà Nội) làm đồ gốm; làng Đại Bái (Bắc Ninh) đúc đồng; làng Vân Chàng (Nam Định) rèn sắt,… Các phường thủ công ở kinh thành Thăng Long như phường Nghi Tàm dệt vải nhỏ và lụa, phường Yên Thái làm giấy, phường Hàng Đào nhuộm điều… Các công xưởng do nhà nước quản lý cọi là Cục bách tác, sản xuất đồ dùng cho nhà vua, vũ khí, đóng thuyền, đúc tiền đồng… các nghề khai mỏ đồng, sắt, vàng được đẩy mạnh. Nhà vua khuyến khích lập chợ mới, họp chợ, ban hành những điều lệ cụ thể quy định việc thành lập chợ và họp chợ. Việc buôn bán với nước ngoài được duy trì. Thuyền bè các nước láng giềng qua lại buôn bán ở một số cửa khẩu như Vân Đồn, Vạn Ninh, Hội Thống và một số địa điểm ở Lạng Sơn, Tuyên Quang được kiểm soát chặt chẽ. Các sản phẩm sành, sứ, vải, lụa, lâm sản quý là những thứ hàng được thương nhân nước ngoài ưa chuộng.
Trong xã hội nhà Lê, nông dân chiếm đại đa số, trong khi đó, tầng lớp thương nhân, thợ thủ công cũng phát triển ngày càng nhiều cả về số lượng và chất lượng. Trong đó, nô tì là tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội, tuy nhiên nhờ pháp luật thời Lê Sơ hạn chế nghiêm ngặt việc tự bán mình làm nô hoặc bức dân tự do làm nô tì, nên số lượng nô tì ngày càng giảm.
Đồng thời, nhờ sự nỗ lực của nhân dân và chính sách khuyến nông của nhà nước, cuộc sống của nhân dân được ổn định, dân số ngày càng tăng. Nhiều làng mới được thành lập. Nền độc lập và thống nhất của đất nước được củng cố. Quốc gia Đại Việt là quốc gia cường thịnh nhất ở Đông Nam Á thời bấy giờ.
THAM KHẢO THÊM: