Kể từ trước khi Bộ luật tố tụng dân sự ra đời, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định về trình tự, thủ tục để giải quyết những tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật sân sự. Bài viết dưới đây sẽ phân tích những nội dung cơ bản của Bộ luật này.
Mục lục bài viết
1. Bộ luật tố tụng dân sự là gì?
Bộ luật tố tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án nhân dân (sau đây gọi là Tòa án) giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự) và trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là việc dân sự); trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự, việc dân sự (sau đây gọi chung là vụ việc dân sự) tại Tòa án; thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài; thi hành án dân sự; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, của cá nhân, của cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp (sau đây gọi chung là cơ quan, tổ chức) có liên quan nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật.
Bộ luật tố tụng dân sự góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; giáo dục mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
Bộ luật tố tụng dân sự tiếng Anh tạm dịch là “Civil Procedure Code”
2. Nội dung của Bộ luật tố tụng dân sự:
2.1. Nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng dân sự (Chương II):
Tất cả các quy phạm pháp luật tố tụng dân sự đều phải thể hiện tinh thần và nội dung các nguyên tắc đã được xác định, tất cả các hành vi, hoạt động của các chủ thể đều phải thực hiện trên cơ sở quán triệt các nguyên tắc đã đề ra, bất kỳ hành vi nào vi phạm một trong số các nguyên tắc đều bị coi là trái pháp luật. Việc quán triệt các nguyên tắc có tác dụng ngăn chặn mọi hành vi vi phạm pháp luật và những biểu hiện tiêu cực trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án dân sự.
Nhóm nguyên tắc chung của Luật tố tụng dân sự Việt Nam:
– Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng dân sự
– Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án
– Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
– Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự
– Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
– Tòa án xét xử tập thể
– Xét xử công khai
– Thực hiện chế độ hai cấp xét xử
– Giám đốc việc xét xử
– Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng dân sự
– Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự
– Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng dân sự
– Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự
– Trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự
– Trách nhiệm chuyển giao tài liệu, giấy tờ của Tòa án
– Trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
– Việc tham gia tố tụng dân sự của cá nhân, cơ quan, tổ chức
Nhóm nguyên tắc đặc thù của Luật tố tụng dân sự Việt Nam:
– Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Các chủ thể do Bộ luật TTDS qui định, có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác.
– Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự: Ðương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
– Cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự:
Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh như đương sự.
Tòa án chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp do luật quy định. Tòa án chỉ hỗ trợ đương sự thu thập chứng cứ và thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong trường hợp họ không thể tự mình thực hiện được và trong trường hợp pháp luật có quy định.
– Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự:
Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, trước Tòa án không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp. Mọi cơ quan, tổ chức đều bình đẳng không phụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và những vấn đề khác.
Các đương sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự, Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
– Hòa giải trong tố tụng dân sự: Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
2.2. Đối tượng áp dụng và hiệu lực của Bộ luật tố tụng dân sự:
– Bộ luật tố tụng dân sự được áp dụng đối với mọi hoạt động tố tụng dân sự trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời.
– Bộ luật tố tụng dân sự được áp dụng đối với mọi hoạt động tố tụng dân sự do cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiến hành ở nước ngoài.
– Bộ luật tố tụng dân sự được áp dụng đối với việc giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài; trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
– Cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài thuộc đối tượng được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi, miễn trừ lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên thì vụ việc dân sự có liên quan đến cơ quan, tổ chức, cá nhân đó được giải quyết bằng con đường ngoại giao.
2.3. Phương pháp điều chỉnh:
Với các quy phạm pháp luật, Luật tố tụng dân sự đã tác động tới đối tượng điều chỉnh bằng các phương pháp điều chỉnh sau đây:
Phương pháp quyền uy mệnh lệnh. Luật tố tụng dân sự điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố tụng bằng phương pháp quyền uy mệnh lệnh thể hiện ở chỗ quy định địa vị pháp lý của Tòa án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án và các chủ thể khác trong tố tụng không giống nhau; các chủ thể khác đều phải phục tùng Tòa án, viện kiểm sát và cơ quan thi hành án.
Các quyết định của Tòa án, viện kiểm sát và cơ quan thi hành án có giá trị bắt buộc các chủ thể khác phải thực hiện, nếu không sẽ bị cưỡng chế thực hiện. Quy định này xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan trên phải có những quyền lực pháp lý nhất định đối với các chủ thể khác. Do đó, ở các quan hệ do Luật tố tụng dân sự điều chỉnh không có sự bình đẳng giữa Tòa án, viện kiểm sát và cơ quan thi hành án với các chủ thể khác.
Phương pháp “mềm dẻo – linh hoạt” dựa trên nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng và tự định đoạt của các đương sự. Phương pháp điều chỉnh này xuất phát từ các quan hệ pháp luật nội dung mà Tòa án có nhiệm vu giải quyết trong các vụ việc dân sự là các quan hệ dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình. Các chủ thể của các quan hệ này có quyền tự quyết định quyền lợi của mình khi tham gia vào các quan hệ đó. Trong vụ việc dân sự, các chủ thể đó là đương sự.
Do vậy, để bảo đảm quyền tự quyết định quyền lợi của các đương sự trong tố tụng, Luật tố tụng dân sự điều chỉnh các quan hệ giữa Tòa án với các đương sự phát sinh trong quá trình tố tụng bằng phương pháp điều chỉnh này. Theo đó, các đương sự được tự quyết định việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án. Khi có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm hại hay tranh chấp các đương sự tự quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết giải quyết vụ việc.
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự, các đương sự vẫn có thể thương lượng, dàn xếp, thỏa thuận giải quyết những vấn đê tranh chấp, rút yêu cầu, rút đơn khởi kiện, tự thi hành án hoặc không yêu cầu thi hành án nữa.
Luật tố tụng dân sự điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình tố tụng bằng hai phương pháp quyền uy mệnh lệnh và “mềm dẻo, linh hoạt”, trong đó phương pháp điều chỉnh chủ yếu là phương pháp quyền uy mệnh lệnh.
3. Những nội dung cơ bản của Bộ luật tố tụng dân sự:
a) Về thẩm quyền của Tòa án (Chương III)
b) Về cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến hành tố tụng (Chương IV)
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung các quy định về cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng để làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến hành tố tụng trên cơ sở pháp điển hóa các văn bản hiện hành có liên quan; bổ sung quy định Thẩm tra viên, Kiểm tra viên là người tiến hành tố tụng và quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể này để phù hợp với Luật Tổ chức TAND năm 2014 và Luật Tổ chức VKSND năm 2014; bổ sung quy định Chánh án Tòa án khi giải quyết các vụ việc dân sự có quyền kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên nhằm cụ thể hóa và bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với quy định tại Khoản 7 Điều 2 Luật Tổ chức TAND năm 2014.
c) Về thành phần giải quyết vụ việc dân sự (Chương V)
Bên cạnh việc tiếp tục kế thừa các quy định về thành phần giải quyết vụ việc dân sự của BLTTDS hiện hành, BLTTDS năm 2015 bổ sung quy định về thành phần Hội đồng xét xử vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn và thành phần Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án dân sự để phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức TAND năm 2014, cụ thể là:
– Việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn do 01 Thẩm phán tiến hành;
– Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm 03 Thẩm phán hoặc toàn thể Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao (Lưu ý: Trường hợp nào xét xử bằng Hội đồng gồm 3 Thẩm phán, trường hợp nào toàn thể Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tiến hành xét xử được quy định tại Khoản 1 Điều 337).
– Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm 05 Thẩm phán hoặc toàn thể Thẩm phán TAND tối cao (Lưu ý: Trường hợp nào xét xử bằng Hội đồng gồm 5 Thẩm phán, trường hợp nào toàn thể Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao tiến hành xét xử được quy định tại Khoản 2 Điều 337).
d) Về người tham gia tố tụng (Chương VI)
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung một số nội dung quy định về người tham gia tố tụng như sau:
– Bổ sung đương sự là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi để phù hợp với BLDS năm 2015;
– Bổ sung quy định đương sự có nghĩa vụ gửi cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ bản sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ, trừ tài liệu chứng cứ mà đương sự khác đã có và tài liệu, chứng cứ mà Tòa án không được công khai theo quy định tại Khoản 2 Điều 109.
– Bỏ quy định về điều kiện “được Tòa án chấp nhận” đối với trường hợp người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự; thay vào đó, chỉ thực hiện thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, tạo điều kiện thuận lợi cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng trong các vụ việc dân sự (Điều 75);
– Sửa đổi, bổ sung quy định về người giám định, quyền, nghĩa vụ của người giám định để phù hợp với Luật Giám định tư pháp;
– Bổ sung quy định pháp nhân là người đại diện trong tố tụng dân sự để phù hợp với BLDS năm 2015 (Khoản 1 Điều 85).
đ) Về chứng minh và chứng cứ (Chương VII)
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung quy định về chứng cứ và chứng minh nhằm làm rõ quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc thu thập chứng cứ, hậu quả của việc đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được, Tòa án chỉ thu thập chứng cứ khi đương sự không thể thu thập được hoặc khi xét thấy cần thiết. Quy định này nhằm phù hợp với mô hình tố tụng dân sự là xét hỏi kết hợp với tranh tụng; bổ sung quy định về thủ tục trao đổi, chuyển giao chứng cứ giữa các đương sự để mọi chứng cứ đều công khai nhằm bảo đảm thực hiện tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án; sửa đổi, bổ sung trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong việc thực hiện những biện pháp thu thập chứng cứ nhằm bảo đảm việc thu thập chứng cứ được nhanh chóng, thuận lợi hơn, khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn; sửa đổi, bổ sung quy định về trưng cầu giám định, định giá tài sản, thẩm định giá tài sản để phù hợp với Luật Giám định tư pháp, Luật Giá; đồng thời, khắc phục khó khăn, vướng mắc hiện nay về thẩm định giá, định giá tài sản.
Về thời gian giao nộp tài liệu, quy định chứng cứ, tại Khoản 4 Điều 96 BLTTDS năm 2015.
Về xác minh, thu thập chứng cứ, bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện quy định cụ thể các biện pháp xác minh, thu thập chứng cứ; BLTTDS năm 2015 đã bổ sung quy định việc thu thập chứng cứ ở giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm, theo đó: trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm, Thẩm tra viên có thể tiến hành thu thập chứng cứ bằng các biện pháp: Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự; xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú. Khi Thẩm tra viên tiến hành thu thập chứng cứ bằng biện pháp “Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự”, Tòa án phải ra quyết định, nêu rõ lý do và yêu cầu của Tòa án.
e) Về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (Chương VIII)
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã bổ sung quy định biện pháp khẩn cấp tạm thời mới là “Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ”; bổ sung quy định trường hợp sau khi đã ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà Tòa án quyết định trả lại đơn khởi kiện hoặc Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án khi đương sự rút đơn khởi kiện hoặc Hội đồng xét xử sơ thẩm, phúc thẩm ra quyết định về việc đình chỉ giải quyết vụ án thì phải đồng thời quyết định hủy bỏ việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Trường hợp đã có bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì việc giải quyết yêu cầu hủy quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời do Chánh án của Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phân công một Thẩm phán giải quyết; đồng thời, bổ sung quy định căn cứ hủy bỏ việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn; bổ sung quy định rõ thủ tục, thẩm quyền giải quyết yêu cầu áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời tại phiên tòa để tránh những sai sót, vướng mắc trong thực tiễn.
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 bổ sung quy định: Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì Tòa án phải bồi thường nếu thuộc một trong các trường hợp: Tòa án tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện pháp khẩn cấp tạm thời mà cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu;
Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cơ quan, tổ chức, cá nhân; Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng thời hạn theo quy định của pháp luật hoặc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà không có lý do chính đáng. Việc bồi thường thiệt hại trong các trường hợp nêu trên được thực hiện theo quy định của
f) Về thời hạn tố tụng (Chương XI)
Quy định về thời hạn tố tụng, thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu theo hướng dẫn chiếu tới các quy định tương ứng của BLDS; khẳng định nguyên tắc “Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ”. Theo quy định này, khi thụ lý giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có trách nhiệm phải giải thích cho đương sự biết quyền và nghĩa vụ của họ, bao gồm cả quyền yêu cầu áp dụng thời hiệu.
g) Về thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm (Phần thứ hai, các chương XII, XIII và XIV)
Những Điểm mới cơ bản liên quan đến thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, bao gồm:
– Sửa đổi, bổ sung quy định về thủ tục khởi kiện, xác định ngày khởi kiện trên cơ sở pháp điển hóa những văn bản hướng dẫn BLTTDS hiện hành nhằm quy định rõ ràng, cụ thể về thủ tục khởi kiện, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện quyền khởi kiện của mình;
– Sửa đổi, bổ sung quy định về giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện (Điều 194); theo đó, việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện phải được tiến hành bằng phiên họp;
– Bổ sung căn cứ tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án khi cần đợi kết quả của cơ quan có thẩm quyền xem xét kiến nghị của Tòa án về việc sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên có liên quan đến việc giải quyết vụ án mà Tòa án đã có văn bản kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ (Điểm e Khoản 1 Điều 214);
– Bổ sung quy định thành phần tham gia phiên hòa giải đối với tranh chấp lao động; Tòa án ban hành quyết định hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ khi căn cứ tạm đình chỉ không còn để làm căn cứ pháp lý tiếp tục giải quyết vụ án, xác định trách nhiệm của Tòa án đối với những vụ án tạm đình chỉ, bảo đảm khi căn cứ tạm đình chỉ không còn thì vụ án sẽ được tiếp tục giải quyết kịp thời; sửa đổi căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án, thủ tục thay đổi tư cách đương sự trong trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện hoặc đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt mà không có đơn xin vắng mặt, trong trường hợp giải quyết vụ án có phản tố của bị đơn hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập nhằm khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn; quy định trường hợp vắng mặt một trong các bên đương sự và người tham gia tố tụng khác thì Chủ tọa phiên tòa phải công bố lời khai của họ để trên cơ sở đó các đương sự có mặt tại phiên tòa tranh luận, đối đáp; quy định trách nhiệm của Chủ tọa phiên tòa trong việc điều hành phiên tòa bảo đảm người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình trong việc tranh tụng; Hội đồng xét xử chỉ hỏi những vấn đề mà người tham gia tố tụng trình bày chưa rõ;
– Bổ sung quy định mới về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Đây là phương thức để bảo đảm các đương sự được quyền biết và tiếp cận tất cả các tài liệu, chứng cứ; trao đổi chứng cứ, bổ sung tài liệu, chứng cứ (nếu có), xác định những chứng cứ đã giao nộp; đề nghị triệu tập người làm chứng hoặc những người tham gia tố tụng khác,… của vụ án trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử giúp cho đương sự có đủ điều kiện chuẩn bị việc tranh tụng tại phiên tòa;
– Bổ sung quy định mới về căn cứ, thủ tục, thời hạn tạm ngừng phiên tòa trong các trường hợp: Cần phải xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ bổ sung mà không thể thực hiện được ngay tại phiên tòa; chờ kết quả giám định bổ sung, giám định lại; do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa: Các bên đương sự đề nghị Tòa án tạm ngừng phiên tòa để họ tự hòa giải; cần phải báo cáo với Chánh án Tòa án để đề nghị, kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản quy phạm pháp luật theo quy định tại Điều 221 của Bộ luật này (Điều 259).
– Bổ sung quy định về thủ tục xét xử trong trường hợp vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng (Điều 238).
i) Về thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm (Phần thứ Ba)
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung quy định thủ tục kháng cáo, kháng nghị, thụ lý, xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị trên cơ sở kế thừa các quy định của BLTTDS hiện hành, đồng thời bổ sung quy định cụ thể về thời hạn kháng cáo, ngày kháng cáo, về hậu quả của việc kháng cáo, kháng nghị, việc gửi hồ sơ vụ án và kháng cáo kháng nghị sau khi xét xử sơ thẩm để phù hợp hơn với thực tiễn xét xử.
Bộ luật cũng bổ sung quy định mới về việc đương sự được quyền cung cấp bổ sung những tài liệu, chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không cung cấp, giao nộp được vì có lý do chính đáng; những tài liệu, chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm; sửa đổi, bổ sung quy định về trình tự phiên tòa phúc thẩm nhằm bảo đảm tranh tụng trong xét xử phúc thẩm, trong đó có quy định về trách nhiệm trình bày của đương sự đối với những nội dung có kháng cáo, kháng nghị; việc hỏi và trả lời tại phiên tòa phúc thẩm; nội dung, phương thức tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm…
k) Về thủ tục rút gọn (Phần thứ Tư)
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 bổ sung một phần mới quy định về thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự nhằm thể chế hóa định hướng được nêu tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị và cụ thể hóa Điều 103 Hiến pháp năm 2013; cụ thể như sau:
– Thủ tục rút gọn chỉ áp dụng để giải quyết vụ án dân sự có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật này, không áp dụng để giải quyết việc dân sự;
– Tòa án áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết các vụ án dân sự khi có đủ các điều kiện: Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, rõ ràng, đủ cơ sở giải quyết Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ; các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng; không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài, trừ trường hợp đương sự ở nước ngoài có thỏa thuận với đương sự ở Việt Nam đề nghị Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn hoặc các đương sự đã xuất trình được chứng cứ về sở hữu hợp pháp tài sản và có thỏa thuận thống nhất về việc xử lý tài sản. Trong quá trình giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn, nếu xuất hiện tình tiết mới theo quy định tại Khoản 3 Điều 317 của BLTTDS, làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để áp dụng theo thủ tục rút gọn thì Tòa án ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường.
Bản án, quyết định được giải quyết theo thủ tục rút gọn được quyền kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Thủ tục phúc thẩm đối với những vụ án được xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn cũng được xây dựng theo hướng rút gọn, do một Thẩm phán tiến hành.
l) Về thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật (Phần thứ Năm)
– Quy định rõ hơn căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, theo đó: Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật; sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra quyết định, bản án không đúng gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba thì mới là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
– Sửa đổi, bổ sung quy định về người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, theo đó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; những bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.
– Bổ sung điều luật mới (Điều 330) quy định đương sự được quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ cho người có thẩm quyền xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu những tài liệu, chứng cứ đó chưa được Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm yêu cầu đương sự giao nộp hoặc đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không giao nộp được vì có lý do chính đáng hoặc những tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc. Trong quá trình giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có thể tự mình thu thập tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc giải quyết vụ án.
Cùng với việc bổ sung Điều 330, BLTTDS năm 2015 còn bổ sung quy định về thủ tục tại phiên tòa giám đốc thẩm, đương sự, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được Tòa án triệu tập đến phiên tòa giám đốc thẩm trình bày ý kiến, tranh luận về những vấn đề mà Hội đồng giám đốc thẩm yêu cầu.
– Sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền giám đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phù hợp với quy định của Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014;
– Bổ sung quy định Hội đồng giám đốc thẩm có thẩm quyền sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật khi có đủ các điều kiện: Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã đầy đủ, rõ ràng; có đủ căn cứ để làm rõ các tình tiết trong vụ án; việc sửa bản án, quyết định bị kháng nghị không gây ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã thi hành được một phần hoặc toàn bộ thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm phải giải quyết hậu quả của việc thi hành án.
*Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết:
– Hiến pháp năm 2013;
–
– Bộ luật Dân sự năm 2015;
– Luật Tố tụng dân sự năm 2015;
– Luật Tổ chức TAND năm 2014;
– Luật Tổ chức VKSND năm 2014.