Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh là tác phẩm có giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật sâu sắc, bởi vậy, tác phẩm rất được lấy làm đề đọc hiểu. Chính vì vậy, hôm nay chúng tôi sẽ gửi đến các bạn ngân hàng đề thi câu hỏi đọc hiểu của tác phẩm này, cùng tham khảo nhé.
Mục lục bài viết
1. Bộ đề đọc hiểu Chuyện cũ trong Phủ chúa Trịnh hay nhất:
1.1. Đề bài:
Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:
“Buổi ấy, bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn nhân gian, Chúa đều ra sức thu lấy, không thiếu một thứ gì. Có khi lấy cả cây đa to, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về. Nó giống như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài ra đến vài trượng, phải một cơ binh khiêng mới nổi, lại bốn người đi kèm, đều cầm gươm, đánh thanh la đốc thúc quân lính khiêng đi cho đều tay. Trong phủ, tùy chỗ điểm xuyết bày vẽ ra hình núi non bộ trông như bến bể đầu non. Mỗi khi đêm thanh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất thường.”
Câu 1: Đoạn trích trên nằm trong tác phẩm nào? Của ai? Nêu hoàn cảnh sáng tác của văn bản.
Câu 2: Trong đoạn trích trên câu nào sử dụng biện pháp liệt kê, nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó.
Câu 3: Nhận xét cách ghi chép của tác giả.
Câu 4: Hình ảnh chúa trong đoạn trích trên được thể hiện như thế nào?
1.2. Đáp án:
Câu 1: Đoạn trích trên trích trong tác phẩm Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ.
– Hoàn cảnh sáng tác văn bản: Đoạn trích thuộc bài văn tế của Vũ Trung, được viết vào khoảng đầu thời Nguyễn (đầu thế kỉ 19), một tác phẩm văn xuôi phản ánh hiện thực đen tối một cách sinh động và hấp dẫn của lịch sử nước ta, đồng thời là tài liệu quý về lịch sử, địa lý, xã hội học
Câu 2: Câu văn sử dụng biện pháp liệt kê: “Ngày ấy, nhân gian có rất nhiều loài vật kỳ lạ, cây ngọc cổ thụ, chậu hoa, cây cảnh, tất cả đều do Thần sưu tập, không thiếu thứ gì.
– Từ ngữ liệt kê: bảo vật kỳ thú, hóa thạch cổ thụ, chậu cây, hoa lá.
– Nhấn mạnh rằng, của hiếm trong dân gian là do Thần cướp đoạt, chiếm giữ. Chúa Trịnh tham lam, độc ác.
Câu 3: Cách ghi chép của tác giả trong đoạn trích: ngòi bút chân thực, cách ghi chép cụ thể, sinh động.
Câu 4: Hình ảnh vị thần trong đoạn trích trên được thể hiện như sau:
– Dùng sức cướp đoạt những bảo vật quý giá trong thiên hạ để trang hoàng cho phủ chúa.
– Cảnh cướp tiêu biểu: lính khiêng cây đa cổ thụ vào phủ chúa.
-Tác giả miêu tả cẩn thận, trau chuốt, bằng ngôn từ chân thực, sinh động.
2. Bộ đề đọc hiểu Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh hay ra nhất:
2.1. Đề bài:
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi :
Bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm. Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay, thì biên ngay hai chữ “phụng thủ” vào. Đêm đến, các cậu trèo qua tường thành lẻn ra, sai tay chân binh lính đến lấy phăng đi, rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền. Hòn đá hoặc cây cối gì to lớn quá, thậm chí phải phá hủy tường nhà để khiêng ra. Các nhà giàu bị họ vu cho là giấu vật cung phụng, thường phải bỏ của ra kêu van chí chết, có khi phải đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ.
Câu 1: Chỉ ra phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích trên.
Câu 2: Nêu nội dung chính của đoạn trích trên.
Câu 3: Hình ảnh người dân trong đoạn trích được miêu tả như thế nào?
Câu 4: Bọn quan lại hầu cận trong phủ chúa đã nhũng nhiễu dân bằng những thủ đoạn nào?
2.2. Đáp án:
Câu 1: Phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích trên là: tự sự
Câu 2: Nêu nội dung chính của đoạn văn cho thấy thủ đoạn cướp bóc của bọn hoạn quan.
Câu 3: Hình ảnh người dân trong đoạn trích được miêu tả: người dân lầm than, khốn khổ, bị vu oan, xin tiền trước sự cướp bóc của bọn quan lại và tay sai. Những người giàu có bị buộc tội giấu tài sản và phải từ bỏ tài sản của họ và khóc cho đến chết.
Câu 4: Bọn quan lại trong phủ chúa ức hiếp nhân dân bằng những thủ đoạn: gió bẻ măng, dọa nạt, cướp của, quát làng, vu khống…
3. Một số câu hỏi liên quan đến bài Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh:
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính: tự sự.
Câu 2: Nội dung: Thói ăn chơi xa đọa của vua chúa và nhũng nhiễu của bọn vua chúa, quan lại thời Trịnh được Phạm Đình Hổ miêu tả rất cụ thể, sinh động
+ Chúa cho xây đền đài cung điện khắp nơi, đốt đuốc vui chơi, thưởng ngoạn cảnh đẹp.
+ Chúa sắp đặt các cuộc dạo chơi đắt giá trong cung: Mỗi tháng ba lần sai quân đi rải khắp bốn hồ.
+ Nơi linh thiêng của Phật giáo cũng trở thành phòng hòa nhạc của các vũ công.
Câu 3: Câu văn sử dụng biện pháp liệt kê: “Buổi ấy, biết bao nhiêu những loại trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn nhân gian, Chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì.
Liệt từ: kho tàng dị thú, cổ quái, chậu cây, hoa lá.
– Nhấn mạnh rằng, của hiếm trong dân gian đều là do Thần cướp đoạt, chiếm giữ. Chúa Trịnh tham lam, độc ác.
Câu 4: Hình ảnh chúa Trịnh trước ngòi bút miêu tả của tác giả Phạm Đình Hổ.
– Sử dụng sức mạnh của bạn để cướp kho báu quý giá trên thế giới để trang trí cho cung điện hoàng gia.
– Cảnh cướp tiêu biểu: lính khiêng cây đa cổ thụ vào phủ chúa.
– Tác giả miêu tả cẩn thận, trau chuốt, bằng ngôn từ chân thực, sinh động.
Câu 5: Tác giả thể hiện thái độ căm ghét, phẫn nộ trước hành động tham lam của bọn quan lại, đặc biệt là hành động cướp bóc thức quý hiếm trong dân gian của chúa.
– Tác giả đau xót trước hiện trạng đất nước ngày càng suy yếu, còn vua chúa sa đọa, quan lại thì nhũng nhiễu, vơ vét đầy túi.
Câu 6: Cách ghi chép của tác giả trong đoạn trích: ngòi bút chân thực, việc ghi chép cụ thể, sinh động.
Câu 7: Cảnh tượng vườn đêm của chú được miêu tả bằng một câu liệt kê dài: “ Mỗi khi cảnh đêm thanh vắng… là triệu bất thường.”
– Cảnh được miêu tả là cảnh thực, gợi cảm giác ghê sợ trước cảnh điêu tàn, đau thương chứ không phải cảnh thanh bình.
– “Triệu bất được”, hình ảnh ẩn dụ miêu tả cảnh đêm vắng lặng lạ thường như báo trước sự suy tàn tất yếu của một triều đại chỉ biết ăn chơi hưởng thụ.
Câu 8: Đoạn trích trên sử dụng phương thức tự sự là chủ yếu.
Câu 9: Sự tham lam, nhũng nhiễu của bọn quan lại ở phủ chúa.
– Thời chúa Trịnh Sâm, các quan lớn nhỏ trong cung đều được sủng ái, là tay chân đắc lực trong việc ăn chơi hưởng thụ của chúa.
– Bọn hoạn quan dựa vào đó mà đi chơi bời, hưởng lạc, nhũng nhiễu nhân dân: “Bọn hoạn quan thường cậy gió bẻ măng mà đi uy hiếp”.
– Bọn quan lại ra sức cướp bóc khắp nơi, chúng “vừa ăn cướp vừa la làng”.
Câu 10: Hình ảnh người dân khốn đốn, khổ cực, bị vu oan, bị đòi tiền trước những cuộc ăn cướp của bọn quan lại, tay sai.
+ Người giàu bị vu cáo là giấu giếm tài sản và phải từ bỏ của cải, khóc lóc cho đến chết.
Câu 11: Cảm nhận về tình trạng của đất nước thời vua Lê – chúa Trịnh.
– Thời đại phong kiến Lê Trịnh là thời đại thối nát, quan lại không lo cho dân mà ra sức cướp bóc, ức hiếp dân.
– Vua bày trò lố lăng, lố bịch, những trò chơi, tiệc tùng tốn kém.
– Người dân không chỉ đói khổ mà còn phải mang nỗi uất hận vì bị bóc lột, cướp bóc.
→ Vương triều mục nát, thối nát báo trước tương lai, sự sụp đổ là tất yếu.
Câu 12: Sự khác nhau giữa tùy bút với thể truyện mà em đã học từ trước.
Thể loại tùy bút | Thể loại truyện |
– Ghi chép về những con người, những sự việc cụ thể, qua đó tác giả bộc lộ suy nghĩ, nhân thức, đánh giá của mình với cuộc sống, con người. – Sự ghi chép tùy theo cảm hứng, có thể lãng mạn, không có kết cấu gì nhưng vẫn tuân theo tư tưởng cảm xúc chủ đạo. – Lối ghi chép tùy bút giàu chất trữ tình ở các loại ghi chép khác. | – Hiện thực cuộc sống được thông qua số phận những con người cụ thể, có cốt truyện, nhân vật. – Cốt truyện được triển khai, nhân vật được khắc họa nhờ hệ thống chi tiết nghệ thuật phong phú, đa dạng bao gồm chi tiết, xung đột, tâm lý nhân vật… |
Câu 13: Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ khẳng định bước tiến lớn trong nghệ thuật viết kí sự thời trung đại. Qua đoạn trích cho thấy:
+ Lối hành văn linh hoạt, lối hành văn tự nhiên, mạch lạc, logic.
+ Lối hành văn chính xác, cụ thể, thông tin đáng tin cậy.
+ Sự kết hợp giữa vẻ mặt lạnh lùng, điềm tĩnh trước hiện thực khách quan của tác giả với những chi tiết được đưa vào tác phẩm một cách có mục đích.
+ Lối viết của tác giả không trau chuốt, hoa mỹ như thường thấy ở các cây bút hiện đại nhưng chất trữ tình của Thiên Bút Ký vẫn toát lên qua những cảm xúc gửi gắm qua những trang viết.