Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới là một tác phẩm đặc sắc của tác giả Vũ Khoan. Trong bài viết dưới đây hãy cùng chúng tôi tìm hiểu bộ đề đọc hiểu Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới (Có đáp án).
Mục lục bài viết
1. Đề đọc hiểu Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới hay nhất:
Đọc đoạn trích sau đây:
“Cái mạnh của con người Việt Nam không chỉ chúng ta nhận biết mà cả thế giới đều thừa nhận là sự thông minh, nhạy bén với cái mới. Bản chất trời phú ấy rất có ích trong xã hội ngày mai mà sự sáng tạo là một yêu cầu hàng đầu. Nhưng bên cạnh cái mạnh đó cũng còn tồn tại không ít cái yếu. Ấy là những lỗ hổng về kiến thức cơ bản do thiên hướng chạy theo những môn học “thời thượng”, nhất là khả năng thực hành và sáng tạo bị hạn chế do lối học chay, học vẹt nặng nề. Không nhanh chóng lấp những lỗ hổng này thì thật khó bề phát huy trí thông minh vốn có và không thể thích ứng với nền kinh tế mới chứa đựng đầy tri thức cơ bản và biến đổi không ngừng…”
(Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới – Vũ Khoan)
1.1. Câu hỏi:
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của đoạn văn trên là gì?
Câu 2: Phần gạch chân trong đoạn văn trên thực hiện phép liên kết nào?
Câu 3: Nội dung chính của đoạn văn trên là gì?
Câu 4: Theo anh (chị), con người Việt Nam còn có điểm yếu nào mà tác giả chưa nói tới? Nêu phương hướng khắc phục điểm yếu ấy.
1.2. Đáp án:
Câu 1: Nghị luận là phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích trên.
Đây là một phương thức thường được sử dụng trong văn viết để thuyết phục độc giả hoặc người nghe về một quan điểm nhất định. Nghị luận thường bao gồm việc đưa ra các lập luận hợp lý, bằng chứng và phân tích để chứng minh một quan điểm hoặc phản bác một quan điểm khác. Ngoài ra, phương thức nghị luận còn có thể sử dụng để giải thích một vấn đề phức tạp hoặc đưa ra các giải pháp cho một vấn đề cụ thể.
Câu 2:
Phần gạch chân trong đoạn trích trên thể hiện phép liên kết thế, nghĩa là nó kết nối hai ý tương tự với nhau để làm nổi bật ý tưởng hay lý luận. Phép liên kết thế là một trong những kỹ thuật viết lách hiệu quả giúp tăng tính logic và sự thuyết phục của bài văn. Bên cạnh đó, việc sử dụng các phép liên kết khác nhau sẽ giúp cho đoạn văn trở nên đa dạng và hấp dẫn hơn đối với người đọc. Vì vậy, khi viết bài, chúng ta nên lưu ý đến việc sử dụng các phép liên kết thích hợp để tăng cường tính thuyết phục và hiệu quả của bài văn.
Câu 3: Trong đoạn văn trên, tác giả đã chia sẻ về những điểm mạnh và hạn chế của tư duy người Việt Nam trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới. Tuy nhiên, bản chất trời phú của con người Việt Nam vẫn là điểm mạnh lớn nhất, đó là sự sáng tạo và khả năng thích ứng với môi trường mới. Tuy nhiên, để đáp ứng được yêu cầu của thời đại mới, cần phải nâng cao kỹ năng mềm và khả năng thực hành, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế và doanh nghiệp.
Câu 4:
Trong khi đa phần chúng ta đã nhận ra những điểm mạnh và yếu của con người Việt Nam, như đã đề cập ở trên, tuy nhiên, còn nhiều vấn đề khác cần được cải thiện để giúp chúng ta phát triển và trở nên tốt hơn. Một trong những vấn đề đó là sự thiếu hiểu biết về thế giới số đang ngày càng phát triển và nhanh chóng.
Trước tiên, chúng ta cần nhận thức rằng việc sử dụng công nghệ và internet không chỉ là một thói quen hằng ngày mà còn là một kỹ năng quan trọng trong thế giới hiện đại. Chúng ta cần tìm hiểu và nắm rõ các công cụ và ứng dụng khác nhau để giúp tối ưu hóa công việc của mình, tăng cường hiệu suất làm việc và tạo ra nhiều cơ hội hơn cho sự phát triển của chúng ta.
Thứ hai, một vấn đề khác mà chúng ta cần đối mặt là sự thiếu kỹ năng giao tiếp và thương lượng. Mặc dù ngôn ngữ tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức của chúng ta, nhưng tiếng Anh cũng là một ngôn ngữ quan trọng trong thế giới kinh doanh và quốc tế. Vì vậy, việc học tiếng Anh và các kỹ năng giao tiếp khác nhau như kỹ năng thương lượng và thuyết phục là rất quan trọng đối với sự phát triển của chúng ta.
Cuối cùng, chúng ta cũng cần nhận thức và thực hiện tinh thần cộng đồng và trách nhiệm xã hội. Việc tham gia các hoạt động tình nguyện và hỗ trợ những người khó khăn trong xã hội không chỉ giúp chúng ta trở nên tốt hơn mà còn giúp cho xã hội và cộng đồng của chúng ta trở nên tốt hơn.
Tổng hợp lại, để người Việt Nam trở nên tốt hơn và phát triển hơn, chúng ta cần chú trọng đến việc cải thiện sự hiểu biết và kỹ năng của mình về thế giới số, tăng cường kỹ năng giao tiếp và thương lượng, và nhận thức về tinh thần cộng đồng và trách nhiệm xã hội. Chỉ khi chúng ta thực sự nỗ lực và cải thiện những điểm yếu của mình, chúng ta mới có thể đạt được những mục tiêu lớn hơn và phát triển một cách bền vững.
2. Đề đọc hiểu Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới chọn lọc:
Đọc đoạn trích sau đây:
Trong những hành trang ấy, có lẽ sự chuẩn bị bản thân con người là quan trọng nhất. Từ cổ chí kim, bao giờ con người cũng là động lực phát triển của lịch sử. Trong thế kỉ tới mà ai ai cũng thừa nhận rằng nền kinh tế tri thức sẽ phát triển mạnh mẽ thì vai trò con người lại càng nổi trội.
2.1. Câu hỏi:
Câu 1: Đoạn văn trên được trích từ tác phẩm nào? Của ai?
Câu 2: Nêu phương thức biểu đạt chính của văn bản.
Câu 3: Nội dung của đoạn văn trên là gì?
Câu 4: Chủ đề của đoạn văn trên nằm ở vị trí nào? Chỉ ra câu chủ đề đó.
Câu 5: Đoạn văn trên sử dụng phép liên kết nào là chủ yếu? Chỉ rõ từ ngữ dùng để liên kết trong đoạn văn.
Câu 6: Từ “có lẽ” trong câu “Trong những hành trang ấy, có lẽ sự chuẩn bị bản thân con người là quan trọng nhất” là thành phần biệt lập nào?
2.2. Đáp án:
Câu 1: Đoạn văn trên là một phần trong tác phẩm “Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới” của tác giả Vũ Khoan. Tác phẩm này được viết ra vào cuối thế kỉ 20, khi thế giới đã chuẩn bị bước vào thế kỉ mới, và Việt Nam cũng đang trải qua những thay đổi và chuyển đổi lớn trong nền kinh tế, chính trị và xã hội.
Câu 2: Nghị luận là phương thức biểu đạt chính trong đoạn trích trên.
Câu 3:
Đoạn văn trên đã cung cấp cho chúng ta một số ý tưởng rất quan trọng về việc chuẩn bị hành trang trong cuộc sống. Như tác giả đã nhấn mạnh, việc chuẩn bị kỹ lưỡng sẽ giúp chúng ta đối mặt với những thử thách phía trước một cách hiệu quả hơn.
Để có thể chuẩn bị tốt hành trang, chúng ta cần phải có một kế hoạch rõ ràng và cụ thể, cùng với sự kiên trì và quyết tâm. Ngoài ra, việc tích lũy kinh nghiệm và kiến thức mới cũng sẽ giúp chúng ta nâng cao đẳng cấp của bản thân và chuẩn bị tốt hơn cho những thử thách sắp tới.
Tuy nhiên, việc chuẩn bị hành trang cũng đòi hỏi chúng ta phải nhận thức rõ những điểm yếu và hạn chế của bản thân. Chỉ khi nhận thức được điều này, chúng ta mới có thể tập trung vào những mặt mạnh của mình và đồng thời vượt qua những trở ngại, để có thể tiến lên phía trước một cách thành công.
Về những điểm mạnh của con người Việt Nam, tác giả đã đề cập đến tinh thần kiên trì, sự sáng tạo và tinh thần đoàn kết. Đây là những yếu tố rất quan trọng đối với mỗi người Việt Nam, và chúng ta nên tự hào về những điểm mạnh này.
Vì vậy, chúng ta nên luôn tự hỏi bản thân rằng: “Chúng ta đã chuẩn bị hành trang của mình đủ kỹ càng để đối mặt với những thử thách phía trước chưa?”. Và chỉ khi trả lời được câu hỏi này một cách chắc chắn, chúng ta mới có thể tiến lên phía trước với niềm tin và sự tự tin.
Câu 4: Chủ đề của đoạn văn nằm ngay ở vị trí câu đầu đoạn trích. Đó là trong câu: “Trong những hành trang ấy, có lẽ sự chuẩn bị bản thân con người là quan trọng nhất”.
Câu 5: Đoạn văn trên tập trung chủ yếu vào việc sử dụng phép lặp từ “con người” để nhấn mạnh vai trò của con người trong văn hóa. Ngoài ra, còn có thể bổ sung thêm những thông tin bổ ích khác về vai trò của con người trong lịch sử và xã hội. Ví dụ, con người đã tạo ra những thành tựu vĩ đại trong khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật và văn hóa. Họ đã xây dựng các nền văn hóa độc đáo và phát triển các giá trị đạo đức và tôn giáo. Ngoài ra, con người còn có vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trường và bảo vệ các loài động vật khác trên trái đất.
Câu 6: Từ “có lẽ” là thành phần biệt lập tình thái trong câu “Trong những hành trang ấy, có lẽ sự chuẩn bị bản thân con người là quan trọng nhất”. Tác giả muốn nhấn mạnh rằng, ngoài việc chuẩn bị những hành trang khác, việc chuẩn bị tâm lý và tinh thần của bản thân cũng rất quan trọng. Vì vậy, có thể nói rằng, sự chuẩn bị bản thân là yếu tố cốt yếu giúp con người vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Ngoài ra, còn có rất nhiều yếu tố khác cần chuẩn bị như kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, mối quan hệ xã hội,… Tóm lại, việc chuẩn bị cho bản thân là một quá trình liên tục và rất cần thiết để phát triển bản thân và đạt được thành công trong cuộc sống.
3. Đề đọc hiểu Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới mới nhất:
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
Cái mạnh của người Việt Nam ta là sự cần cù, sáng tạo. Điều đó thật hữu ích trong một nền kinh tế đòi hỏi tinh thần kỷ luật rất cao và thái độ rất nghiêm túc đối với công cụ và quy trình lao động với những máy móc, thiết bị rất tinh vi. Tiếc rằng ngay trong mặt mạnh này của chúng ta cũng lại ẩn chứa những khuyết tật không tương tác chút nào với một nền kinh tế công nghiệp hoá chứ chưa nói tới nền kinh tế tri thức. Người Việt nam ta cần cù thì cần cù thật nhưng lại thiếu đức tính tỉ mỉ. Khác với người Nhật vốn cũng nổi tiếng cần cù lại thường rất cẩn trọng trong khâu chuẩn bị công việc, làm cái gì cũng tính toán chi ly từ đầu, người Việt Nam ta thường dựa vào tính tháo vát của mình, hành động theo phương châm “nước đến chân hãy nhảy”, “liệu cơm gắp mắm”. Do còn chịu ảnh hưởng nặng nề của phương thức sản xuất nhỏ và cách sống ở nơi thôn dã vốn thoải mái và thanh thản nên người Việt Nam chưa có được thói quen tôn trọng những quy định nghiêm ngặt của công việc là cường độ khẩn trương. Ngay bản tính “sáng tạo” một phần nào đó cũng có mặt trái ở chỗ ta hay loay hoay “cải tiến”, làm tắt, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình công nghệ. Trong một xã hội công nghiệp và “hậu công nghiệp”, những khuyết tật ấy sẽ là những vật cản ghê gớm.
3.1. Câu hỏi:
Câu 1: Nêu nội dung của đoạn trích trên.
Câu 2: Em hiểu thế nào là “kinh tế tri thức”.
Câu 3: Tác giả sử dụng những thao tác lập luận nào để làm sáng tỏ nội dung? chỉ cụ thể?
Câu 4: Nêu tác dụng của câu văn cuối trong đoạn trích.
3.2. Đáp án:
Câu 1: Nội dung chính của đoạn trích đưa ra một cuộc thảo luận về những thách thức và cơ hội mà người dân Việt Nam đang phải đối mặt khi tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế thế giới. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh khốc liệt, người dân Việt Nam cần phải phát huy những mặt mạnh của mình, bao gồm sự chịu khó, sáng tạo, và thái độ cởi mở đối với các giá trị và văn hóa khác nhau. Tuy nhiên, đồng thời cũng cần phải khắc phục những mặt yếu, bao gồm kỹ năng ngoại ngữ, kỹ năng quản lý và kỹ năng kỹ thuật, để có thể cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế. Vì vậy, việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là rất quan trọng, đồng thời cần phải thiết lập chính sách hỗ trợ và khuyến khích các hoạt động kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, để tăng cường sức cạnh tranh và đóng góp vào sự phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.
Câu 2:
“Kinh tế tri thức” là một mô hình kinh tế tập trung vào sự sáng tạo và sử dụng tri thức để tạo ra giá trị kinh tế. Nó không chỉ đơn thuần là sử dụng chất xám trong mọi lĩnh vực, mà còn được xem như một cách tiếp cận toàn diện hơn đối với kinh tế.
Nền kinh tế tri thức cũng bao gồm việc đầu tư vào giáo dục và nghiên cứu phát triển công nghệ. Các chuyên gia và nhà nghiên cứu có vai trò quan trọng trong việc tạo ra những ý tưởng mới và đưa chúng vào sản xuất.
Ngoài ra, kinh tế tri thức còn liên quan đến việc xây dựng một nền tảng hạ tầng kỹ thuật số và khuyến khích sự phát triển của các ngành công nghiệp sử dụng công nghệ cao. Điều này có thể giúp tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và giúp nâng cao đời sống của người dân.
Vì vậy, kinh tế tri thức không chỉ là một lĩnh vực duy nhất mà bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống kinh tế và xã hội. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và gia tăng sức cạnh tranh của các quốc gia trên thế giới.
Câu 3: Các thao tác lập luận được sử dụng trong đoạn văn trên là:
Thao tác so sánh: đưa dẫn chứng về những nét đặc trưng của người Nhật, so sánh với những nét đặc trưng của người Việt Nam.
Thao tác bình luận: đưa ra những nhận định nhận xét về những mặt mạnh và mặt yếu của người Việt Nam. Theo tác giả, người Việt Nam có những khả năng và tiềm năng vượt trội, tuy nhiên cũng có những hạn chế cần được cải thiện.
Thao tác phân tích: phân tích nguyên nhân mặt yếu của người Việt Nam hoặc những tiềm năng mặt mạnh của người Việt Nam. Tác giả cho rằng, nguyên nhân của mặt yếu của người Việt Nam là do hệ thống giáo dục chưa được phát triển đầy đủ, còn những tiềm năng mặt mạnh của người Việt Nam là do nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng và người Việt có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc.
Câu 4: Trong đoạn trích này, tác giả cảnh báo về những vật cản có thể xảy ra trong quá trình hội nhập với nền kinh tế năng động của thế giới. Nếu như con người Việt Nam không cải thiện được những điểm yếu của mình, như thiếu kiến thức cơ bản, thiếu sự tỉ mỉ, khẩn trương và năng động, thì chúng sẽ trở thành những rào cản đáng sợ trong quá trình hội nhập này. Điều này sẽ dẫn đến tình trạng tụt hậu và đói nghèo, mà không ai muốn chứng kiến. Vì vậy, để đạt được mục tiêu hội nhập và phát triển, chúng ta cần cải thiện và nâng cao những điểm yếu của mình, đồng thời học hỏi, áp dụng những kinh nghiệm tốt từ các nước phát triển trên thế giới. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể đồng hành và cạnh tranh với các quốc gia khác trên thế giới.