Truyện ngắn “Bức tranh” được rút trong tập “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” (1983) của nhà văn Nguyễn Minh Châu, là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn trong đầu những năm 80. Trong bài viết dưới đây, xin gửi đến bạn đọc Tổng hợp các đề đọc hiểu truyện ngắn Bức Tranh - Nguyễn Minh Châu hay nhất.
Mục lục bài viết
1. Bộ đề đọc hiểu Bức Tranh của Nguyễn Minh Châu có đáp án hay nhất:
Đọc đoạn văn bản sau:
Lược phần đầu: Nhân vật ông hoạ sĩ được anh lính trẻ giúp đỡ khi đi thực tế sáng tác, anh lính có nguyện vọng nhờ ông vẽ bức kí hoạ chân dung anh và mang về cho gia đình ở Hà Nội để người thân không lo lắng vì bặt tin anh đã lâu. Nhưng khi ra Bắc, bức tranh được mang đi triển lãm các nơi, ông hoạ sĩ đạt được nhiều giải thưởng nên quên mất lời hứa với người lính trẻ. Thời bình trở về, một lần đi cắt tóc, ông vô tình gặp lại người lính xưa nay là anh thợ cắt tóc. Biết hoàn cảnh của anh, ông càng thêm day dứt vì quyết định của mình.
Đoạn trích sau kể về một lần ông hoạ sĩ đến hiệu cắt tóc của anh chiến sĩ năm xưa.
Cặp mắt anh lại đang nhìn xói vào cái mặt tôi đang được bàn tay anh dằn ngửa ra. Da mặt tôi cứ dày lên. Tôi nhắm mắt, rồi mở mắt. Mỗi lúc mở mắt, tôi không thể nhìn đi đâu khác cặp mắt anh. Trời ơi, có lẽ tôi ngồi trên ghế cắt tóc ở cái quán này đã một nửa thế kỷ? Chốc nữa, sắp tới, anh sẽ làm gì tôi đây?
– Đồ dối trá, mày hãy nhìn coi, bà mẹ tao khóc đã lòa cả hai mắt kia! Bây giờ thì tấm hình tao đã được trưng trên các tạp chí hội họa của khắp các nước. Người ta đã trân trọng ghi tên mày bên dưới, bên cạnh mấy chữ: “Chân dung chiến sĩ giải phóng”. Thật là danh tiếng quá!
– Tôi là một nghệ sĩ chứ có phải đâu là một anh thợ vẽ truyền thần, công việc nghệ sĩ là phục vụ cả một số đông người, chứ không phải chỉ phục vụ một người! Anh chỉ là một cá nhân, với một cái chuyện riêng của anh, anh hãy chịu để cho tôi quên đi, để phục vụ cho cái đích lớn lao hơn. Anh đã thấy đấy, bức “chân dung chiến sĩ giải phóng” đã đóng góp đôi chút vào công việc làm cho thế giới hiểu cuộc kháng chiến của chúng ta thêm!
“A ha! Vì mục đích phục vụ số đông của người nghệ sĩ cho nên anh quên tôi đi hả… Có quyền lừa dối hả? Thôi, anh bước khỏi mắt tôi đi. Anh cút đi!”.
Một bận, đến hai ngày liền tôi không thấy anh thợ của tôi làm việc. Cái quán cắt tóc bỏ vắng hai ngày liền. Sáng ngày thứ ba vẫn thế. Và lại thấy một người đàn bà ra dọn dẹp, chứ không phải bà cụ già lòa như mọi ngày. Tôi chạy sang. Chiếc ghế cắt tóc không còn nữa. Chỉ còn chiếc gương và mấy cái chai lọ. Người đàn bà hỏi tôi:
– Bác đến cắt tóc?
– Vâng.
– Nhà em mấy hôm nay đang dọn cái chỗ làm mới ở phố ngoài kia. Ngày mai xong. Xin mời bác đến.
Vợ anh có vẻ trạc tuổi gần ba mươi. Một khuôn mặt đàn bà hiền lành. Chị vừa nói vừa bóc tấm tranh của tôi ra. Tôi gợi chuyện.
– Bức tranh đẹp đấy chứ, chị nhỉ?
Người đàn bà hơi đỏ mặt, cuốn tấm tranh lại một cách cẩn thận. Lâu sau mới đáp:
– Anh nhà tôi bảo: Anh bộ đội trong tờ tranh này chính là người ta vẽ anh ấy. Hồi anh ấy còn ở bộ đội trong B. Cho nên mới mua về treo.
– Anh ấy nói với chị thế?
– Vâng.
– Hôm trước tôi đến cắt tóc ở đây có thấy một bà cụ…
– Là mẹ anh nhà tôi. Thế ra bác là khách quen?
– Vâng. Bà cụ bị tật lâu chưa?
– Thưa đã lâu. Đã chín năm nay.
– Vì sao?
– Bà cụ lòa đi cũng vì anh nhà tôi. Ngày đó bỗng nhiên có tin ra nhà tôi hy sinh. Bà cụ đâm ốm. Anh ấy là con một. Bà cụ nhớ anh ấy, nửa đêm cũng trở dậy đi lang thang. Cứ khóc hoài…
– Bà cụ lòa từ năm nào, chị biết không?
– Từ 69.
– Từ tháng mấy?
– Tôi cũng không nhớ thật rõ, có lẽ khoảng giữa năm.
Tôi ra đến Hà Nội vào đầu tháng ba năm ấy. Nếu tôi là một người tử tế ra thì không khéo bà cụ không bị lòa, không những thế mà tôi còn có thể làm cho bà cụ khỏe ra! Chính tôi đã làm cho bà mẹ anh trở thành mù lòa?
[…] Tôi quyết định phải trở lại cái quán kia. Tôi quyết định phải chường cái mặt mình ra, chứ không được lẩn tránh. Tôi không cho phép tôi chạy trốn. Bà cụ lại ngước mắt lên nhìn tôi như lần trước khuôn mặt đờ đẫn và hoan hỉ:
– Thưa ông đến cắt tóc?
– Vâng ạ!
Anh thợ cắt tóc nghe mẹ lên tiếng mới quay người lại. Tôi vừa kịp nhận ra được từ nơi cặp mắt vẫn còn trẻ của anh chiếu thẳng về phía tôi một cái nhìn ban đầu soi mói, ngạc nhiên, rồi hơi nghiêm mặt lại. Nhưng những diễn biến phản ứng trên cái mặt người thợ chỉ diễn ra nhanh như một cái chớp mắt. Ngay sau đó anh lại trở lại cái vẻ mặt và cử chỉ từ tốn, điềm đạm, ân cần của một người thợ cắt tóc đứng đắn và yêu nghề.
Da mặt tôi tự nhiên dày cộm lên.
– Mời bác ngồi!
Tôi cố trấn tĩnh để khỏi run lập cập, bước tới ngồi vào cái ghế gỗ như một cái ghế tra điện.
– Bác vẫn cắt như cũ?
– Vâng.
…
“Lần này anh lại đối xử với tôi như lần trước đây?”
“Phải”.
“Anh cũng không trách mắng, chỉ trán chỉ mặt tôi?”
“Không! Anh cứ yên tâm. Trước sau tôi vẫn coi anh là một nghệ sĩ tài năng đã có nhiều cống hiến cho xã hội”.
“Bây giờ anh nói với tôi một điều gì đi, khuyên tôi một nhời đi!”
“Không”.
“Tôi có phải cút khỏi đây không?”
“Không. Anh cứ đến đây. Tôi cắt cho anh kỹ lắm, anh biết đấy!”
Gần nửa năm, tôi đã để vào bức tranh sơn mài tất cả công sức và sự suy nghĩ, và trong suốt thời gian ấy, một đôi lần tôi cũng gợi lại chuyện cũ nhưng người thợ vẫn một mực cố tỏ ra chưa hề bao giờ quen biết tôi. Trở về làm một anh thợ cắt tóc cũng như lúc ở bộ đội, anh vẫn lẳng lặng sống như vậy để cho người chung quanh tự phán xét lấy những công việc đã làm. Lời đề nghị rụt rè của anh: Xin mọi người hãy tạm ngừng một phút cái nhịp sống bận bịu, chen lấn, để tự suy nghĩ về chính mình.
Bây giờ thì cái tác phẩm mới của tôi đã hoàn thành. Tôi đang đối mặt với chính mình, để viết những dòng này, như những lời chú giải cho một tác phẩm hội họa thể hiện một cái mặt người rất lớn: những luồng ánh sáng hàng nghìn nến từ phía trước và trên đầu chiếu thẳng xuống một nửa mái đầu tóc tốt rợp như một khu rừng đen bí ẩn, và một nửa mái tóc đã cắt, thoạt trông như một phần bộ óc mầu xám vừa bị mổ phanh ra. Phần bên dưới khuôn mặt như vẫn đang được giấu kín dưới một cái mặt nạ: dưới cằm và hai bên mép phủ kín bọt xà phòng.
Không trông rõ miệng, chỉ thấy một vệt mầu đen lờ mờ nổi bồng bềnh trên những đám bọt xà phòng. Và nổi bật trên cái khuôn mặt là đôi mắt mở to, khắc khoải, bồn chồn, đầy nghiêm khắc, đang nhìn vào nội tâm.
(Nguyễn Minh Châu, trích Bức tranh)
Chú thích:
1. Tác giả Nguyễn Minh Châu (1930-1989), quê ở huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông là cây bút văn xuôi tài năng của văn học Việt Nam hiện đại. Trước những năm tám mươi, ông sáng tác theo khuynh hướng sử thi thiên về trữ tình, lãng mạn. Sau đó, ông chuyển sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức, triết lý nhân sinh, ông được đánh giá là người mở đường tinh anh, cây bút tiên phong trong văn học thời kì đổi mới. Các tác phẩm chính của ông là: Sau một buổi tập (1960); Cửa sông (1966), Dấu chân người lính (1972), Miền cháy (1977), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985), Phiên chợ Giát (1989),…
2. Truyện ngắn Bức tranh trích trong tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1: Đoạn trích được kể theo ngôi thứ mấy?
Câu 2: Xác định trợ từ trong các câu sau: Nhưng những diễn biến phản ứng trên cái mặt người thợ chỉ diễn ra nhanh như một cái chớp mắt. Ngay sau đó anh lại trở lại cái vẻ mặt và cử chỉ từ tốn, điềm đạm, ân cần của một người thợ cắt tóc đứng đắn và yêu nghề
Câu 3: Xác định kiểu cốt truyện trong đoạn trích.
Câu 4: Theo đoạn trích, bức tranh của người họa sĩ vẽ có tên là gì?
Câu 5: Giải thích nghĩa của từ khắc khoải trong câu: Và nổi bật trên cái khuôn mặt là đôi mắt mở to, khắc khoải, bồn chồn, đầy nghiêm khắc, đang nhìn vào nội tâm.
Câu 6: Nêu ý nghĩa của chi tiết: bức tranh tự hoạ của ông hoạ sĩ ở cuối đoạn trích.
Câu 7: Nhận xét về suy nghĩ, tâm trạng của ông hoạ sĩ trong đoạn trích trên.
Câu 8: Nêu bài học ý nghĩa nhất mà em rút ra từ câu chuyện trên là gì?
Hướng dẫn trả lời:
Câu 1: Đoạn trích được kể theo ngôi thứ nhất.
Câu 2: Trợ từ: chỉ, ngay.
Câu 3: Truyện ngắn “Bức tranh” được viết theo kiểu cốt truyện đơn tuyến.
Câu 4: Theo đoạn trích, bức tranh người họa sĩ vẽ có tên là “Chân dung chiến sĩ giải phóng”.
Câu 5:
Nghĩa của từ khắc khoải:
Khắc khoải: day dứt, trăn trở, dằn vặt thường trực, trở đi trở lại không yên.
Câu 6:
Ý nghĩa của chi tiết: bức tranh tự hoạ của ông hoạ sĩ ở cuối đoạn trích.
+ Sự phức tạp của đời sống nội tâm, đan xen tốt xấu trong mỗi con người.
+ Sự tự phán xét nghiêm khắc, sự thức tỉnh của ông họa sĩ về cái nhỏ nhen, ích kỷ của mình.
Câu 7:
Tâm trạng của ông họa sĩ trong đoạn trích: day dứt, trăn trở, ăn năn. Qua đó, thể hiện sự suy nghĩ về sự nhỏ nhen, hẹp hòi của bản thân cũng như sự đấu tranh nội tâm của con người vượt lên cái tầm thường, ích kỷ.
Câu 8:
Thông qua câu chuyện trên, bản thân em nghĩ trong cuộc sống cần có lòng trung thực và sự nghiêm khắc với chính mình, con người cần sống cao thượng, biết giữ lời hứa,…
2. Bộ đề đọc hiểu Bức Tranh của Nguyễn Minh Châu có đáp án ngắn gọn:
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
Khi nhận được lệnh trở ra miền bắc để cùng các họa sĩ ngoài Hà Nội chuẩn bị một cái triển lãm ở nước ngoài, thì tất cả tranh và ký họa của tôi vẽ trong mấy năm đã chất lên đầy một cái sạp lán giữa rừng căn cứ. Tôi lọc lấy chỉ độ một phần ba, vậy mà trên đường tôi đi ra, các đồng chí phụ trách các trạm giao liên trên từng chặng từng chặng một, phải thay phiên nhau cử một chiến sĩ của trạm đi theo “thồ” tranh cho tôi.
Hôm đó, đoàn chúng tôi đi qua một vùng trên đất bạn nổi tiếng nhiều biệt kích, lại rất đói, cũng là cái “rốn” của bệnh sốt rét. Chúng tôi được nghỉ lại một ngày để dưỡng sức, lán của nhóm khách đi đường chúng tôi dựng ngay trên đầu một cái lán khác của anh em chiến sĩ trong trạm. Buổi trưa, tôi đang ngồi vẩn vơ ghi mấy cái dáng hòn đá, thân cây trước lán nghỉ của mình, thì trông thấy một người chiến sĩ nước da xam xám và cặp môi thâm sì đang leo mấy bậc dốc từ lán dưới đi lên. Người chiến sĩ đi thẳng đến trước mặt tôi ngồi xuống xem tôi vẽ. Rồi sau mấy câu chuyện làm quen, người chiến sĩ tha thiết thỉnh cầu tôi vẽ cho anh một bức chân dung (*).
Tôi bỗng thấy tự ái. Tôi là một họa sĩ, chứ đâu phải một anh thợ vẽ truyền thần () Tôi từ chối khéo bằng cái mặt lạnh lùng. Người chiến sĩ tỏ vẻ phật ý, anh nhìn vào cái mặt lạnh lùng của tôi một thoáng rồi lẳng lặng quay lưng lại tôi, chậm rãi đi xuống dưới những cái bậc dốc.
Sáng hôm sau, chúng tôi lại lên đường. Thật một điều không ngờ, chẳng biết ai xui khiến thế nào mà chính người chiến sĩ trưa hôm qua lại “thồ” tranh cho tôi, chính lại là anh chứ không phải một người nào khác.
Thật là phiền cho tôi quá!
Vừa ra khỏi trạm, người dẫn đường đã báo cho khách biết trên dọc đường phải vượt thật nhanh khi leo một con dốc, sau đó là một con suối rất trống trải, đã có một vài đoàn bị bọn biệt kích bắn lén hoặc máy bay thám thính phát hiện. Cái nghề đi đường rừng nó là như vậy, nói một chữ chung chung là đèo, dốc, suối,… nhưng ở thực địa mặt mũi chúng chẳng chỗ nào giống chỗ nào cả. Đi đến quá trưa, chúng tôi gập lưng lại, lội qua một quả núi đất không dốc lắm, mọc đầy cỏ tranh đang trổ bông rất đẹp và lác đác có những hòn đá tai mèo. Những vỉa đá tai mèo mọc lởm chởm giữa cỏ tranh mỗi lúc một dày, và khi quả núi đổ sang sườn dốc bên kia thì chỉ có rặt đá tai mèo đen kịt, chúng tôi vừa thở dốc ra cả bằng mũi, bằng tai, năm ngón tay bịt chặt lấy chỏm đầu từng hòn đá một mà lần xuống.
Ác thay cái bãi đá tai mèo nằm giữa khúc suối dưới chân núi. Có lẽ nó rộng đến năm trăm thước. Con suối chảy đến đấy thì phình rộng ra chảy lênh láng và réo lên ầm ầm trên một cái nền đá lởm chởm. Tuy đã được nghỉ một ngày nhưng sau khi leo qua được quả núi thì tôi đã thấm mệt. Tôi dò dẫm đi giữa khúc suối một cách vất vả quá, cứ dần dần bị tụt lại sau. Rồi chân tôi tự nhiên bị sỉa xuống một hẻm đá ngầm dưới nước. Tôi giơ hai tay lên trời chới với..
Người chiến sĩ “thồ” tranh cho tôi đang đi phía trước, cách một quãng khá xa, vội vã quay lộn lại. Nếu anh không đến kịp có lẽ là tôi bị dòng suối cuốn đi. Anh cởi chiếc ba lô sau lưng cho tôi, khoác vào trước ngực mình. Anh đỡ lấy tôi, giúp tôi rút cái chân lên. Rồi dìu tôi đi. Tôi thở dốc. Mồ hôi vã ra như tắm. Hai mắt đổ đom đóm. “Đồng chí cố gắng lên – Người chiến sĩ vừa đi vừa động viên tôi – Tôi dìu đồng chí đi nhanh qua bên kia suối sẽ nghỉ. Nếu thằng L. 19 đến, chúng mình cứ ngồi xuống. Nó chẳng thấy gì cả đâu!”.
Tôi không đủ sức theo kịp đoàn được nữa. Qua bên kia suối, người chiến sĩ lấy dầu con hổ bóp chân cho tôi, lúc ngồi nghỉ. Rồi bắt đầu từ đó, chỉ có hai người, anh và tôi, đi trong rừng. Tôi chỉ có thể đi người không. Người chiến sĩ vừa phải “thồ” đống tranh của tôi sau lưng (to và nặng gấp đôi một cái ba lô bình thường của khách đi đường) lại vừa phải mang thêm chiếc ba lô riêng của tôi trước ngực. Có lẽ tất cả đến sáu bảy chục cân. Mà người chiến sĩ có khỏe mạnh gì cho cam!
Tôi không nói thì chắc các bạn cũng biết, ngay từ lúc người chiến sĩ đến gặp tôi để nhận mang cái bó tranh, tôi đã khó xử đến thế nào? Thế mà bây giờ, trên dọc đường, không những riêng cái đống tài sản của tôi mà cả chính tôi cũng đã trở thành một gánh nặng cho anh. Xưa nay tôi vẫn cho mình là một kẻ cũng biết tự trọng, và cũng biết suy nghĩ. Giá người chiến sĩ tỏ thái độ lạnh nhạt hoặc mặc xác tôi nằm lại một mình, tập tễnh đi một mình giữa rừng, thì tôi cũng thấy là cái lẽ phải. Xưa nay tôi vẫn quan niệm rằng: Sống ở đời, cho thế nào thì nhận thế ấy. Cái cách cư xử của người chiến sĩ đối với tôi chỉ có thể giải thích bằng lòng độ lượng. Độ lượng? Thế nhưng tôi nhiều tuổi hơn? Tôi lại là một họa sĩ có tên tuổi? Xưa nay tôi chỉ mới thấy lòng độ lượng của kẻ trên đối với người dưới. Bây giờ đây thì chính tôi, một kẻ bề trên, đang được một người dưới tỏ ra độ lượng với mình.
Tối ngày hôm đó, hai chúng tôi phải ngủ lại nửa đêm giữa rừng. Người chiến sĩ mắc võng cho tôi nằm rồi ôm súng ngồi gác bên cạnh. Nhưng làm sao mà ngủ được? Tôi đến ngồi bên anh, trên một phiến đá. Rừng đêm tối mò và đầy hăm dọa. “Tôi xin lỗi đồng chí về cái việc hôm qua.. – tôi nói khẽ bên tai anh – Đến mai, thế nào tôi cũng phải vẽ đồng chí. Một bức, thật đẹp!”.
(Trích truyện ngắn Bức tranh, Nguyễn Minh Châu)
Câu 1: Xác định thể loại của văn bản
Câu 2: Tình huống chính được kể trong đoạn trích là tình huống gì?
Câu 3: Nhận xét về nhân vật người chiến sĩ thồ tranh được miêu tả trong đoạn trích.
Câu 4: Qua cách cư xử của người chiến sĩ với nhân vật tôi trong đoạn trích, em rút ra bài học gì cho bản thân về cách ứng xử với những người xung quanh?
Hướng dẫn trả lời:
Câu 1: Đoạn trích thuộc thể loại: truyện ngắn.
Câu 2: Tình huống chính được kể trong đoạn trích: Khi nhân vật tôi bị thương và người chiến sĩ thồ tranh đã hết lòng giúp đỡ nhân vật tôi.
Câu 3:
Người chiến sĩ thồ tranh trong đoạn trích trên là một người lính thật thà, giàu tình yêu thương, luôn suy nghĩ cho những người xung quanh kể cả khi người ấy có ác cảm với mình. Khi họa sĩ bị thương, người chiến sĩ một mình đeo cả 60 – 70 kí lên người mà chẳng phàn nàn hay kêu ca.
Câu 4:
Thông qua ứng xử của anh chiến sĩ với nhân vật tôi trong đoạn trích, bản thân em nhận thấy rằng, trong cuộc sống chúng ta phải luôn biết bao dung, nhân ái, kể cả đối với những người không thích mình. Không phải cứ cho đi luôn là để nhận lại. Có những điều khi ta làm chỉ là một việc nhỏ thôi nhưng lại mang lại cho đối phương những điều quý giá nhất mà đôi khi có bao nhiêu của cải, vật chất cũng không thể mua được.
3. Bộ đề đọc hiểu Bức Tranh của Nguyễn Minh Châu có đáp án chi tiết:
Đọc văn bản sau:
Cặp mắt anh lại đang nhìn xói vào cái mặt tôi đang được bàn tay anh dằn ngửa ra. Da mặt tôi cứ dày lên. Tôi nhắm mắt, rồi mở mắt. Mỗi lúc mở mắt, tôi không thể nhìn đi đâu khác cặp mắt anh. Trời ơi, có lẽ tôi ngồi trên ghế cắt tóc ở cái quán này đã một nửa thế kỷ? Chốc nữa, sắp tới, anh sẽ làm gì tôi đây?
– Đồ dối trá, mày hãy nhìn coi, bà mẹ tao khóc đã lòa cả hai mắt kia! Bây giờ thì tấm hình tao đã được trưng trên các tạp chí hội họa của khắp các nước. Người ta đã trân trọng ghi tên mày bên dưới, bên cạnh mấy chữ:
“Chân dung chiến sĩ giải phóng”. Thật là danh tiếng quá!
– Tôi là một nghệ sĩ chứ có phải đâu là một anh thợ vẽ truyền thần, công việc nghệ sĩ là phục vụ cả một số đông người, chứ không phải chỉ phục vụ một người! Anh chỉ là một cá nhân, với một cái chuyện riêng của anh, anh hãy chịu để cho tôi quên đi, để phục vụ cho cái đích lớn lao hơn. Anh đã thấy đấy, bức “chân dung chiến sĩ giải phóng” đã đóng góp đôi chút vào công việc làm cho thế giới hiểu cuộc kháng chiến của chúng ta thêm!
“A ha! Vì mục đích phục vụ số đông của người nghệ sĩ cho nên anh quên tôi đi hả… Có quyền lừa dối hả? Thôi, anh bước khỏi mắt tôi đi. Anh cút đi!”.
Một bận, đến hai ngày liền tôi không thấy anh thợ của tôi làm việc. Cái quán cắt tóc bỏ vắng hai ngày liền. Sáng ngày thứ ba vẫn thế. Và lại thấy một người đàn bà ra dọn dẹp, chứ không phải bà cụ già lòa như mọi ngày. Tôi chạy sang. Chiếc ghế cắt tóc không còn nữa. Chỉ còn chiếc gương và mấy cái chai lọ. Người đàn bà hỏi tôi:
– Bác đến cắt tóc?
– Vâng.
– Nhà em mấy hôm nay đang dọn cái chỗ làm mới ở phố ngoài kia. Ngày mai xong. Xin mời bác đến.
Vợ anh có vẻ trạc tuổi gần ba mươi. Một khuôn mặt đàn bà hiền lành. Chị vừa nói vừa bóc tấm tranh của tôi ra. Tôi gợi chuyện.
– Bức tranh đẹp đấy chứ, chị nhỉ?
Người đàn bà hơi đỏ mặt, cuốn tấm tranh lại một cách cẩn thận. Lâu sau mới đáp:
– Anh nhà tôi bảo: Anh bộ đội trong tờ tranh này chính là người ta vẽ anh ấy. Hồi anh ấy còn ở bộ đội trong B. Cho nên mới mua về treo.
– Anh ấy nói với chị thế?
– Vâng.
– Hôm trước tôi đến cắt tóc ở đây có thấy một bà cụ…
– Là mẹ anh nhà tôi. Thế ra bác là khách quen?
– Vâng. Bà cụ bị tật lâu chưa?
– Thưa đã lâu. Đã chín năm nay.
– Vì sao?
– Bà cụ lòa đi cũng vì anh nhà tôi. Ngày đó bỗng nhiên có tin ra nhà tôi hy sinh. Bà cụ đâm ốm. Anh ấy là con một. Bà cụ nhớ anh ấy, nửa đêm cũng trở dậy đi lang thang. Cứ khóc hoài…
– Bà cụ lòa từ năm nào, chị biết không?
– Từ 69.
– Từ tháng mấy?
– Tôi cũng không nhớ thật rõ, có lẽ khoảng giữa năm.
Tôi ra đến Hà Nội vào đầu tháng ba năm ấy. Nếu tôi là một người tử tế ra thì không khéo bà cụ không bị lòa, không những thế mà tôi còn có thể làm cho bà cụ khỏe ra! Chính tôi đã làm cho bà mẹ anh trở thành mù lòa?
[…] Tôi quyết định phải trở lại cái quán kia. Tôi quyết định phải chường cái mặt mình ra, chứ không được lẩn tránh. Tôi không cho phép tôi chạy trốn. Bà cụ lại ngước mắt lên nhìn tôi như lần trước khuôn mặt đờ đẫn và hoan hỉ:
– Thưa ông đến cắt tóc?
– Vâng ạ!
Anh thợ cắt tóc nghe mẹ lên tiếng mới quay người lại. Tôi vừa kịp nhận ra được từ nơi cặp mắt vẫn còn trẻ của anh chiếu thẳng về phía tôi một cái nhìn ban đầu soi mói, ngạc nhiên, rồi hơi nghiêm mặt lại. Nhưng những diễn biến phản ứng trên cái mặt người thợ chỉ diễn ra nhanh như một cái chớp mắt. Ngay sau đó anh lại trở lại cái vẻ mặt và cử chỉ từ tốn, điềm đạm, ân cần của một người thợ cắt tóc đứng đắn và yêu nghề.
Da mặt tôi tự nhiên dày cộm lên.
– Mời bác ngồi!
Tôi cố trấn tĩnh để khỏi run lập cập, bước tới ngồi vào cái ghế gỗ như một cái ghế tra điện.
– Bác vẫn cắt như cũ?
– Vâng.
…
“Lần này anh lại đối xử với tôi như lần trước đây?”
“Phải”.
“Anh cũng không trách mắng, chỉ trán chỉ mặt tôi?”
“Không! Anh cứ yên tâm. Trước sau tôi vẫn coi anh là một nghệ sĩ tài năng đã có nhiều cống hiến cho xã hội”.
“Bây giờ anh nói với tôi một điều gì đi, khuyên tôi một nhời đi!”
“Không”.
“Tôi có phải cút khỏi đây không?”
“Không. Anh cứ đến đây. Tôi cắt cho anh kỹ lắm, anh biết đấy!”
Gần nửa năm, tôi đã để vào bức tranh sơn mài tất cả công sức và sự suy nghĩ, và trong suốt thời gian ấy, một đôi lần tôi cũng gợi lại chuyện cũ nhưng người thợ vẫn một mực cố tỏ ra chưa hề bao giờ quen biết tôi. Trở về làm một anh thợ cắt tóc cũng như lúc ở bộ đội, anh vẫn lẳng lặng sống như vậy để cho người chung quanh tự phán xét lấy những công việc đã làm. Lời đề nghị rụt rè của anh: Xin mọi người hãy tạm ngừng một phút cái nhịp sống bận bịu, chen lấn, để tự suy nghĩ về chính mình.
Bây giờ thì cái tác phẩm mới của tôi đã hoàn thành. Tôi đang đối mặt với chính mình, để viết những dòng này, như những lời chú giải cho một tác phẩm hội họa thể hiện một cái mặt người rất lớn: những luồng ánh sáng hàng nghìn nến từ phía trước và trên đầu chiếu thẳng xuống một nửa mái đầu tóc tốt rợp như một khu rừng đen bí ẩn, và một nửa mái tóc đã cắt, thoạt trông như một phần bộ óc mầu xám vừa bị mổ phanh ra. Phần bên dưới khuôn mặt như vẫn đang được giấu kín dưới một cái mặt nạ: dưới cằm và hai bên mép phủ kín bọt xà phòng. Không trông rõ miệng, chỉ thấy một vệt mầu đen lờ mờ nổi bồng bềnh trên những đám bọt xà phòng. Và nổi bật trên cái khuôn mặt là đôi mắt mở to, khắc khoải, bồn chồn, đầy nghiêm khắc, đang nhìn vào nội tâm.
(Trích truyện ngắn Bức tranh, Nguyễn Minh Châu, tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,1983)
Lựa chọn đáp án đúng:
Câu 1: Đoạn trích được kể theo ngôi thứ mấy?
A. Ngôi thứ nhất
B. Ngôi thứ hai
C. Ngôi thứ ba
D. Ngôi thứ hai và ngôi thứ ba
Câu 2: Đoạn trích trên có sự xuất hiện của mấy nhân vật?
A. 1
B. 2
C. 3
D. 4
Câu 3: Bức tranh của người họa sĩ vẽ có tên là gì?
A. “Chân dung người chiến sĩ”
B. “Chân dung anh bộ đội cụ Hồ”
C. “Chân dung người chiến sĩ quả cảm”
D. “Chân dung chiến sĩ giải phóng”
Câu 4: Câu sau thuộc kiểu câu nào phân theo mục đích nói?
“Đồ dối trá, mày hãy nhìn coi, bà mẹ tao khóc đã lòa cả hai mắt kia!”
A. Câu đơn
B. Câu ghép
C. Câu cảm thán
D. Câu cầu khiến
Câu 5: Vì sao bà mẹ (bà cụ) bị mù lòa cả hai mắt?
A. Bà cụ ốm một trận rất nặng rồi hai mắt lòa đi.
B. Bà cụ khóc thương tới lòa hai mắt khi nghe tin con trai hy sinh.
C. Bà cụ bị mù lòa hai mắt bẩm sinh.
D. Bà cụ gặp tai nạn khiến hai mắt bị mù lòa.
Câu 6: Trên cương vị là một người họa sĩ, nhân vật “tôi” là người như thế nào?
A. Là một nghệ sĩ tài năng, anh ta vốn nghiêm túc với nghệ thuật và công việc.
B. Là một nghệ sĩ nổi tiếng, với mong muốn vẽ được bức tranh để đời.
C. Là nghệ sĩ vẽ tranh kém nổi, sống nhờ nghề vẽ tranh.
D. Là nghệ sĩ tài ba, được học qua nhiều trường lớp và các họa sĩ nổi tiếng.
Câu 7: Sau khi biết lý do mẹ của anh thợ cắt tóc bị mù, nhân vật “tôi” có thái độ như thế nào?
A. Nhận ra lỗi lầm của bản thân và cảm thấy day dứt, trăn trở.
B. Chưa nhận ra lỗi lầm nhưng cảm thấy buồn thương.
C. Cảm thấy lo lắng, sợ hãi.
D. Cảm thấy hoảng hốt, hồi hộp.
Câu 8: Em hãy nhận xét về sự thay đổi cách xưng hô của anh thợ cắt tóc với nhân vật “tôi”.
Câu 9: Em hiểu như thế nào về lời đề nghị rụt rè của anh thợ cắt tóc trong quá khứ được gợi lại từ dòng hồi tưởng của nhân vật “tôi”: Xin mọi người hãy tạm ngừng một phút cái nhịp sống bận bịu, chen lấn, để tự suy nghĩ về chính mình.
Câu 10: Hãy viết một đoạn văn (khoảng 5 – 7 câu) trình bày suy nghĩ của em về người thợ cắt tóc trong đoạn trích “Bức tranh” của tác giả Nguyễn Minh Châu.
Câu 11: Phân tích đặc điểm của người kể chuyện trong truyện (ngôi kể, quan hệ và thái độ của người kể chuyện đối với các nhân vật trong truyện, lời kể chuyện và lời nhân vật trong truyện có gì đặc biệt?)
Câu 12: Truyện ngắn “Bức tranh” đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu khi ông chuyển hướng sáng tác sang kiểu nhân vật tư tưởng. Dựa vào đoạn trích trên, em hãy viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá về các nhân vật trong truyện ngắn “Bức tranh” của Nguyễn Minh Châu.
Hướng dẫn trả lời:
Câu 1: A
Câu 2: D
Câu 3: D
Câu 4: C
Câu 5: B
Câu 6: A
Câu 7: A
Câu 8:
+ Xưng – hô: tao – mày
→ Thể hiện sự tức giận khi người họa sĩ đã gián tiếp khiến cho mẹ của anh bị mù lòa cả hai con mắt vì tưởng rằng anh đã hy sinh.
+ Xưng hô: tôi – bác/anh
→ Thể hiện thái độ tôn trọng, khẳng định tài năng của người họa sĩ.
Câu 9:
“Xin mọi người hãy tạm ngừng một phút cái nhịp sống bận bịu, chen lấn, để tự suy nghĩ về chính mình.” Lời đề nghị rụt rè của một người họa sĩ – nhân vật chính trong truyện ngắn “Bức tranh” – chứa đựng thông điệp có tính triết lý sâu sắc của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Người họa sĩ trong câu chuyện đã tự nhận mình là kẻ giả dối và luôn tự dằn vặt bản thân, bởi chính ông đã quên đi người mẹ đang hàng ngày trông ngóng tin tức của đứa con trai duy nhất nơi chiến trường. Nguyên nhân của lỗi lầm này có lẽ xuất phát từ sự ích kỷ của người họa sĩ. Ở đây, người họa sĩ đang đứng giữa hai lựa chọn: một là lảng tránh, một là dũng cảm đối mặt.
Nhưng khi một lần nữa người họa sĩ đến gặp người chiến sĩ, ánh sáng từ sự độ lương của người chiến sĩ đã trở thành điểm nhấn của tác phẩm. Người chiến sĩ đã cố tình tỏ ra không quen biết người họa sĩ để không làm ông phải hổ thẹn, thế nhưng đây là điểm sáng giúp cho người họa sĩ hiểu được những điều cao cả, tốt đẹp đang tồn tại thực sự trong cuộc sống này.
Câu 10:
Đoạn trích kể lại cuộc gặp gỡ giữa một người chiến sĩ năm xưa, hiện là anh thợ cắt tóc và một họa sĩ già, cùng với đó là hành trình của người họa sĩ vượt qua những mâu thuẫn tình cảm khi biết được chính bản thân mình là nguyên nhân khiến bà mẹ của người lính bị mù. Khi hội ngộ với người họa sĩ, hình ảnh người thợ cắt tóc hiện lên với nhiều cảm xúc đa dạng. Đầu tiên là sự tức giận khi người họa sĩ đã quên mất đi lời hứa khiến cho mẹ anh bị mù. Nếu ông họa sĩ đến gặp mẹ anh sớm hơn thì bà đã không bị mù. Trong khi đó, người họa sĩ lại được ngợi ca vì bức tranh của mình. Dù chỉ một vài câu kể cũng đã truyền tải hết cho người đọc cảm nhận được sự khắc nghiệt của chiến tranh. Hậu quả của chiến tranh đã khiến cho bản thân người chiến sĩ và gia đình anh phải chịu nhiều tổn thương. Tuy nhiên, ở lần gặp tiếp theo, người chiến sĩ đã lại là một thợ làm tóc chuyên nghiệp điềm tĩnh, chỉ tập trung vào việc cắt tóc, không còn mắng mỏ hay tỏ ra tức giận với người họa sĩ. Sự điềm tĩnh của anh không hẳn đã là tha thứ mà đơn giản anh đang muốn khiến cho người họa sĩ phải suy ngẫm về hành động của mình, khiến ông nhận ra lỗi lầm của bản thân khi quên gặp mẹ anh ngày trước và đưa bức tranh cho bà. Bức tranh về người chiến sĩ giải phóng quân như một tấm gương soi chiếu để người họa sĩ tự vấn bản thân, cũng như là để anh chiến sĩ suy ngẫm về cuộc chiến khốc liệt, về những mất mát mà nó mang lại cho con người. Thông qua thế giới nội tâm của nhân vật người họa sĩ, tác giả muốn nhắc nhở chúng ta: “Mỗi con người hãy cảnh tỉnh với chính mình. Xin mọi người hãy tạm ngừng một phút cái nhịp sống bận bịu, chen lẫn để suy nghĩ về chính mình”.
Câu 11:
Ngôi kể: Ngôi thứ nhất – xưng tôi
+ Mối quan hệ, thái độ của người kể chuyện đối với các nhân vật trong truyện: Nhân vật “tôi” là người họa sĩ vẽ bức tranh về một chàng trai là bộ đội lúc bấy giờ, với thông tin anh bộ đội ấy đã chết. Ngày giải phóng, người họa sĩ ghé quán cắt tóc do chính anh bộ đội năm xưa mở.
→ Mối quan hệ giữa nhân vật của tôi và người thợ làm tóc – anh bộ đội ngày xưa là cảm giác tội lỗi, áy này, khó xử khi biết rằng mình chính là một trong những nguyên nhân khiến người mẹ khóc mù mắt vì thương nhớ con(nghĩ rằng con đã hy sinh).
+ Có điều đặc biệt trong cách kể chuyện và lời nói của các nhân vật. Người kể chuyện là nhân vật của tôi. Ngoài cuộc trò chuyện giữa nhân vật tôi với người thợ cắt tóc và vợ anh ta, còn có một số đoạn tưởng tượng ra lời đối thoại có phần trách móc của anh thợ cắt tóc với chính mình
→ Thể hiện nỗi dằn vặt nội tâm của người nghệ sĩ khi biết mình có thể là nguyên nhân khiến mẹ anh thợ cắt tóc bị mù.
Câu 12:
+ Giới thiệu nhân vật và mối quan hệ của hai nhân vật:
Người họa sĩ, đó là một anh chàng nghệ sĩ tài năng, anh ta vốn nghiêm túc với nghệ thuật và công việc.
Người thợ làm nghề cắt tóc sau thời gian đi bộ đội trở về.
+ Nghệ thuật trần thuật:
Ngôi kể: Ngôi thứ nhất – xưng tôi
Mối quan hệ, thái độ của người kể chuyện đối với các nhân vật trong truyện: Nhân vật “tôi” là người họa sĩ vẽ bức tranh về một chàng trai là bộ đội lúc bấy giờ, với thông tin anh bộ đội ấy đã chết. Ngày giải phóng, người họa sĩ ghé quán cắt tóc do chính anh bộ đội năm xưa mở.
→ Mối quan hệ giữa nhân vật của tôi và người thợ làm tóc – anh bộ đội ngày xưa là cảm giác tội lỗi, áy này, khó xử khi biết rằng mình chính là một trong những nguyên nhân khiến người mẹ khóc mù mắt vì thương nhớ con(nghĩ rằng con đã hy sinh).
Có điều đặc biệt trong cách kể chuyện và lời nói của các nhân vật. Người kể chuyện là nhân vật của tôi. Ngoài cuộc trò chuyện giữa nhân vật tôi với người thợ cắt tóc và vợ anh ta, còn có một số đoạn tưởng tượng ra lời đối thoại có phần trách móc của anh thợ cắt tóc với chính mình
→ Thể hiện nỗi dằn vặt nội tâm của người nghệ sĩ khi biết mình có thể là nguyên nhân khiến mẹ anh thợ cắt tóc bị mù.
Điểm nhìn từ nhân vật tôi và điểm nhìn xây dựng từ bên trong.
+ Tác dụng: Nhân vật tôi trực tiếp tham gia vào câu chuyện và ảnh hưởng đến các nhân vật khác. Vì vậy, việc đẩy điểm nhìn từ phía nhân vật tôi sẽ làm cho câu chuyện trở nên thực tế hơn và cho phép độc giả theo dõi dòng cảm xúc của câu chuyện. Đồng thời, việc xây dựng góc nhìn nội tâm khiến cho người đọc cảm nhận rõ nét về nỗi thống khổ, dằn vặt, dày vò cùng những suy ngẫm về triết lý sống hay cuộc trò chuyện giữa nhân vật tôi và người thợ cắt tóc khiến cho nhân vật tôi cảm thấy hoang mang, e ngại và lo sợ. → Liên hệ với phong cách sáng tác truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
+ Các chủ đề về tư tưởng, triết lý nhân sinh: đề cao tính chính trực và đạo đức con người. Để sáng tạo nghệ thuật, nghệ thuật phải được sinh ra từ đạo đức và duy trì đạo đức để làm nghệ thuật.
THAM KHẢO THÊM: