Bản tóm tắt bài Một thời đại trong thi ca Ngữ văn lớp 11 gồm các bài tóm tắt ngắn gọn, hay nhất giúp học sinh biết cách tóm tắt tác phẩm Một thời đại trong thi ca từ đó nắm được những nét chính về nội dung của văn bản để học tốt môn Ngữ văn lớp 11. Xin mời bạn đọc theo dõi bài viết sau với chủ đề Bố cục, tóm tắt đoạn trích Một thời đại trong thi ca ngắn gọn.
Mục lục bài viết
- 1 1. Bố cục đoạn trích Một thời đại trong thi ca:
- 2 2. Tóm tắt đoạn trích Một thời đại trong thi ca ngắn gọn:
- 2.1 2.1. Tóm tắt đoạn trích Một thời đại trong thi ca ngắn gọn – Mẫu 1:
- 2.2 2.2. Tóm tắt đoạn trích Một thời đại trong thi ca ngắn gọn – Mẫu 2:
- 2.3 2.3. Tóm tắt đoạn trích Một thời đại trong thi ca ngắn gọn – Mẫu 3:
- 2.4 2.4. Tóm tắt đoạn trích Một thời đại trong thi ca ngắn gọn – Mẫu 4:
- 2.5 2.5. Tóm tắt đoạn trích Một thời đại trong thi ca ngắn gọn – Mẫu 5:
- 2.6 2.6. Tóm tắt đoạn trích Một thời đại trong thi ca ngắn gọn – Mẫu 6:
- 2.7 2.7. Tóm tắt đoạn trích Một thời đại trong thi ca ngắn gọn – Mẫu 7:
- 3 3. Đọc hiểu đoạn trích Một thời đại trong thi ca:
1. Bố cục đoạn trích Một thời đại trong thi ca:
– Phần 1: Từ đầu đến “….phải nhìn vào đại thế”: Nguyên tắc để xác định tinh thần thơ mới.
– Phần 2: Tiếp theo đến “…rẻ rúng động đến thế”: Tinh thần thơ mới: chữ tôi.
– Phần 3: Còn lại: sự vận động của thơ mới xung quanh cái tôi và bi kịch của nó.
2. Tóm tắt đoạn trích Một thời đại trong thi ca ngắn gọn:
2.1. Tóm tắt đoạn trích Một thời đại trong thi ca ngắn gọn – Mẫu 1:
Trong tiểu luận này, Hoài Thanh đề cập đến chủ đề quan trọng là tìm ra tinh thần của thơ Mới. Tác giả đưa ra những nguyên tắc xác định tinh thần của thơ mới. Thay vì dựa vào những bài dở và cục bộ, chúng ta phải dựa vào những bài hay và đại thể. Tinh thần của thơ mới có thể nhận biết và xác định ở chỗ chữ “tôi” trong thơ mới đối lập với chữ “ta” trong thơ cũ, biểu thị bi kịch của bản thân cái tôi trong bài mới. Cuối cùng, qua việc lồng ghép tình yêu vào tiếng Việt, nó thể hiện sự chuyển động của cái “tôi” và cách giải quyết những bi kịch của thời đại mình.
2.2. Tóm tắt đoạn trích Một thời đại trong thi ca ngắn gọn – Mẫu 2:
“Một thời đại trong thi ca” là bài mở đầu cuốn sách Thi nhân Việt Nam xuất bản năm 1942.
Sau khi xem xét quá trình hình thành thơ mới, tức là quá trình đấu tranh gay gắt với một trường phái thơ cũ để có được chỗ đứng trên nền tảng thơ ca mới, Hoài Thanh đặt ra câu hỏi: “Bây giờ hãy đi tìm cái điều ta cho là quan trọng hơn: tinh thần Thơ Mới.
Tinh thần thơ Mới nằm ở chữ “tôi”, mang ý nghĩa cá nhân. Tuy nhiên, chữ “tôi”, theo nghĩa tuyệt đối của nó, dường như gắn liền với sự bất lực và cô đơn trong hoàn cảnh xã hội tăm tối của đất nước đương thời đó. Thế Lữ (Thoát Tiên), Lưu Trọng Lư (Phiêu lưu cùng trường tình), Xuân Diệu (đắm say), Hàn Mặc Tử (Điên cuồng) và Huy Cận (ngơ ngẩn buồn), Các nhà phê bình đã tóm tắt sự bế tắc đáng thương của thời đại qua phong cách của tác giả.
Những bi kịch tiềm ẩn được các nhà thơ gửi gắm vào tiếng Việt để đương đầu với hiện tại và giữ vững niềm tin vào tương lai.
2.3. Tóm tắt đoạn trích Một thời đại trong thi ca ngắn gọn – Mẫu 3:
Mở đầu bài viết, tác giả đề cập đến khó khăn trong việc đi tìm tinh thần trong thơ mới. Tác giả đưa ra những nguyên tắc giúp phân biệt thơ mới và thơ cũ một cách rất khái quát, nhấn mạnh cốt lõi tạo nên tinh thần của thơ mới – cái “tôi” cá nhân. Hoài Thanh nhắc đến sự tương phản giữa cái “tôi” trong thơ mới và cái “ta” trong thơ cũ để nhấn mạnh bi kịch tinh thần của cái “tôi” trong thơ mới. Cuối cùng, tác giả chỉ ra cách giải quyết những bi kịch của thời đại, trong đó có sự chuyển động của cái “tôi” và tình yêu tiếng Việt.
2.4. Tóm tắt đoạn trích Một thời đại trong thi ca ngắn gọn – Mẫu 4:
Văn bản được chia thành ba phần chính. Mở đầu bài viết, tác giả Hoài Thanh đề cập đến sự khó khăn trong việc tìm lại tinh thần trong thơ mới. Điều này vô cùng khó khăn đối với tác giả, cả trong cách trình bày, so sánh các tác phẩm cũng như cách đặt chúng trong bối cảnh thời bấy giờ. Và tác giả đã giúp chúng ta nhận biết thơ mới, thơ cũ một cách khái quát và chung nhất. Sau khi phát hiện ra một tinh thần thơ mới, tác giả chuyển sang cái “tôi” cá nhân, là cốt lõi của việc tạo dựng một tinh thần thơ mới. Khi cái “tôi” xuất hiện thì trở nên quá xa lạ vì họ đã quá quen với cái “ta” chung chung và rộng lớn. Hơn nữa, chữ “tôi” xuất hiện trong hoàn cảnh u ám của đất nước, và cả bầu trời đất nước đang bị bao phủ bởi bóng đen ngoại xâm. Ông cũng nói về cái tôi được tạo ra bởi tầng lớp trí thức tiểu tư sản như Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử. Lúc bấy giờ họ đang trì trệ và mất niềm tin khi đối mặt với thời đại bối cảnh. Và những nhà thơ mới đang gửi tình yêu vào tiếng Việt và tìm lại niềm tin của họ. Họ nhìn về quá khứ và cố quên đi hiện tại bi thảm.
2.5. Tóm tắt đoạn trích Một thời đại trong thi ca ngắn gọn – Mẫu 5:
Hoài Thanh từng nói: “Một đời tôi chỉ tìm cái hay cái đẹp để bình. Đó là điều ham muốn của tôi. Vậy mà tôi đã vấp khối chuyện phiền: kẻ yêu, người ghét. Thậm chí tôi còn bị vu cáo, bị nói oan. Viết khác cái tạng của mình. Điều mà tôi có thể hoàn toàn yên tâm và tự hào trước lúc đi xa là tôi đã sống và viết hoàn toàn trung thực”. Ngoài vai trò là nhà văn, ông còn là nhà phê bình và viết nhiều tác phẩm phê bình nổi tiếng, trong đó có Một thời đại trong thi ca. Tiểu luận lý giải vẻ đẹp, cái hay của thơ mới trong phong trào Thơ Mới từ 1932 đến 1945. Trong chương trình lớp 11, học sinh được tiếp xúc với các bài văn thông qua bài tiểu luận “Một Thời đại trong thi ca” được rút ra từ tác phẩm.
2.6. Tóm tắt đoạn trích Một thời đại trong thi ca ngắn gọn – Mẫu 6:
Bằng sự kết hợp khéo léo giữa biện pháp tu từ và lối viết vừa gần gũi, thân mật nhưng lại vô cùng sâu sắc và chặt chẽ, Hoài Thanh đã làm sáng tỏ cốt lõi của phong trào thơ mới cô đọng thành cái “tôi” và bi kịch của thơ hiện đại của những thanh niên đương thời đó. Từ đó, cả ý nghĩa văn học lẫn ý nghĩa thời kỳ đều được nhấn mạnh.
2.7. Tóm tắt đoạn trích Một thời đại trong thi ca ngắn gọn – Mẫu 7:
Tác phẩm này thể hiện rõ nét nội dung thiết yếu của tinh thần thơ mới. Lần đầu tiên chữ “tôi” xuất hiện trong bài thơ với một ý nghĩa tuyệt đối, đồng thời nó cũng nói lên bi kịch đang ẩn chứa trong tâm hồn người thanh niên lúc bấy giờ.
3. Đọc hiểu đoạn trích Một thời đại trong thi ca:
3.1. Nguyên tắc xác định tinh thần thơ mới:
– Những khó khăn:
+ Ranh giới giữa thơ mới và thơ cũ không phải lúc nào cũng rõ ràng, dễ nhận biết.
+ Thơ mới và thơ cũ đều có điểm hay, điểm dở.
⇒ Nhận xét: Tác giả sử dụng giọng văn gần gũi, tha thiết, nồng nàn, khẩn trương nhưng chân thành, với những câu cảm thán giả định không chỉ nhấn mạnh khó khăn mà còn cả nguyện vọng của con người yêu văn chương và quyết đi tìm một tinh thần thơ mới.
– Nguyên tắc xác định:
+ Phương pháp so sánh: So sánh bài hay với bài hay, không dựa trên bài dở.
+ Biện chứng, đa chiều, không phiến diện: Nhìn vào bức tranh toàn cảnh chứ không phải cục bộ. ⇒ Nhận xét: Nguyên tắc này có tính thuyết phục, khách quan và đúng đắn. Bởi vì:
– Những điều dở luôn tồn tại, chúng không đại diện cho bất cứ điều gì, chúng không phù hợp để đại diện cho thời gian, và nghệ thuật luôn có sự liên tục giữa cái cũ và cái mới.
– Đồng thời, việc đánh giá phải được xem xét một cách toàn diện.
3.2. Tinh thần thơ mới:
– Chữ “tôi” thuộc về tinh thần của thơ mới.
+ Bản chất của chữ “tôi”: quan niệm cá nhân (ý nghĩa tuyệt đối của nó) trong sự giải phóng, trỗi dậy và bùng nổ của ý thức cá nhân.
+ Hành trình: chập chững, lạ lẫm – quen biết – bị coi là đáng thương và tội nghiệp.
⇒ Nhận xét:
– Thơ cũ là tiếng nói của cái ta gắn liền với một tập thể, một cộng đồng, một dân tộc.
– Thơ mới là tiếng nói của cái tôi, có ý nghĩa tuyệt đối, gắn liền với cái riêng, cá thể, cá nhân.
– Phương pháp so sánh, đối chiếu gắn liền với các quan điểm biện chứng, lịch sử và đa chiều.
+ Đặt cái tôi vào mối quan hệ so sánh với cái ta.
+ Phân tích, đánh giá cái tôi trong mối quan hệ với thời gian và tâm lý của giới trẻ hiện đại.
+ Đặt mình vào góc độ lịch sử để nhận diện lịch sử xuất hiện, lịch sử phát triển, lịch sử tiếp nhận, v.v.
3.3. Một trào lưu thơ mới xoay quanh cái “tôi” và bi kịch của nó:
– Cái tôi tội nghiệp, thảm hại:
+ Mất dũng khí: Tôi không có dũng khí như Lí Bạch, cũng không có lòng tự trọng khinh cảnh cơ hàn như Nguyễn Công Trứ.
+ Than thở, khốn khổ, thảm hại.
+ Hoàn toàn mất niềm tin vào hiện thực, cố gắng trốn chạy khỏi hiện thực nhưng lại rơi vào bi kịch.
→ Cách trình bày rất chung chung, có tính khái quát cao (về sự bế tắc cái tôi của thơ mới và phong cách riêng của mỗi nhà văn). Những lập luận logic, chặt chẽ nhưng cách diễn đạt lại giàu cảm xúc và hình ảnh.
– Những hướng đi mà các nhà thơ mới đang thực hiện:
+ Thế Lữ: Thoát lên tiên
+ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên: Điên cuồng.
+ Xuân Diệu: Đam mê.
+ Huy Cận:: Buồn ngẩn ngơ.
→ Vô vọng, càng đi sâu càng lạnh.
– Bi kịch của tuổi trẻ ngày ấy.
+ Cảm thấy cô đơn, buồn chán, không tin vào hiện thực nên tìm cách trốn chạy nó nhưng cuối cùng lại đi vào ngõ cụt (đây cũng là đặc điểm cơ bản của thơ mới).
+ Cái tôi bi thảm này vừa có ý nghĩa văn học vừa có ý nghĩa xã hội, vì nó “tiêu biểu nhất cho thời đại”.
– Giải quyết bi kịch: gửi cả vào tiếng Việt.
+ Họ yêu thích ngôn ngữ này đến mức chia sẻ vui buồn với cha ông.
+ Họ truyền tình yêu quê hương vào tình yêu dân tộc Việt Nam.
+ Tiếng Việt là tấm lụa đã hứng vong hồn bao thế hệ qua.
+ Họ muốn mượn một tâm hồn chung và bày tỏ những trăn trở cá nhân.
+ Họ tin rằng ngôn ngữ của ta còn sống thì đất nước ta còn sống.
+ Để tin vào một điều gì đó đủ bất diệt để bảo đảm cho ngày mai, chúng ta cần nhìn lại quá khứ.