Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có nhiều sự thay đổi đối với chế định bị hại. Bị hại được xác định là các cá nhân trực tiếp bị thiệt hại do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra trên thực tế. Vậy theo quy định của pháp luật hiện nay thì bị hại có quyền đề nghị hình phạt cho bị cáo hay không?
Mục lục bài viết
1. Bị hại có được quyền đề nghị hình phạt cho bị cáo không?
Hình phạt không chỉ hướng đến việc trừng trị người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phạm tội mà còn nhằm giáo dục họ ý thức tuân thủ pháp luật và các chuẩn mực của đời sống xã hội, qua đó ngăn ngừa nguy cơ tái phạm.
Đồng thời, hình phạt còn mang ý nghĩa răn đe, giáo dục các cá nhân và pháp nhân thương mại khác biết tôn trọng pháp luật, góp phần phòng ngừa và đấu tranh hiệu quả với tội phạm.
Căn cứ Khoản 2 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có quy định về quyền của bị hại như sau:
- Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;
- Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
- Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
- Đề nghị giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật;
- Được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án;
- Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
- Đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường;
- Tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa;
- Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
- Tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;
- Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa;
- Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
- Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy: Bị hại CÓ quyền đề nghị Tòa án xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo.
2. Bị hại có quyền thỏa thuận mức hình phạt đối với bị cáo không?
Theo điểm g khoản 2 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 theo như phân tích tại Mục 1, một trong những quyền của bị hại là: Đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường. Bên cạnh quyền đề nghị hình phạt cho bị cáo, pháp luật cho phép bị hại và bị cáo tự thỏa thuận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Bao gồm:
- Thiệt hại về sức khỏe, tính mạng;
- Thiệt hại về tài sản;
- Khắc phục hậu quả khác.
Việc bồi thường có thể được xem là một tình tiết giảm nhẹ theo điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 nếu bị cáo tự nguyện bồi thường hoặc khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, dù hai bên có thỏa thuận bồi thường thì Tòa án có thể vẫn tự mình quyết định mức án (hình phạt cụ thể) dựa trên quy định của pháp luật do vấn đề dân sự và hình sự là 02 vấn đề khác nhau được giải quyết chung trong cùng 01 vụ án.
Ngoài ra, Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hạii:
- Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ luật Hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
- Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
- Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
Như vậy, khi thuộc một trong những trường hợp nêu trên mà bị hại rút yêu cầu khởi tố thì cơ quan có thẩm quyền phải đình chỉ giải quyết vụ án.
Theo quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự hiện hành, bị hại KHÔNG có quyền thỏa thuận hay quyết định mức hình phạt đối với bị cáo mà chỉ có quyền đưa ra đề nghị về hình phạt. Việc quyết định hình phạt cụ thể sẽ thuộc thẩm quyền của Tòa án dựa trên quy định của Bộ luật Hình sự, tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự…
Khi quyết định mức hình phạt thì Tòa án sẽ đánh giá một cách tổng thể từ hành vi, tính chất, mức độ, hậu quả, nhân thân, hoàn cảnh, điều kiện phạm tội để làm căn cứ xem xét các tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ khi quyết định mức hình phạt cho bị cáo.
3. Để quyết định hình phạt cho bị cáo, cần căn cứ vào đâu?
Khi quyết định hình phạt, Tòa án sẽ căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự 2015 cũng như cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự… Cụ thể như sau:
3.1. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 50 Bộ luật Hình sự 2015 gồm:
- Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
- Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
- Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
- Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
- Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
- Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
- Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
- Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
- Phạm tội do lạc hậu;
- Người phạm tội là phụ nữ có thai;
- Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
- Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
- Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
- Người phạm tội tự thú;
- Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
- Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
- Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
- Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
- Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Lưu ý:
- Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
- Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
3.2. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 gồm:
- Phạm tội có tổ chức;
- Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;
- Phạm tội có tính chất côn đồ;
- Phạm tội vì động cơ đê hèn;
- Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;
- Phạm tội 02 lần trở lên;
- Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm;
- Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên;
- Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;
- Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;
- Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội;
- Dùng thủ đoạn hoặc phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội;
- Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội;
- Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm.
Lưu ý: Các tình tiết đã được Bộ luật Hình sự 2015 quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng.
3.3. Tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội:
Tòa án căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Mỗi hành vi phạm tội đều gây ra những hậu quả khác nhau đối với xã hội, bị hại và trật tự an toàn chung. Những yếu tố như:
- Phương thức, thủ đoạn phạm tội;
- Mức độ thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, tài sản;
- Động cơ, mục đích của bị cáo;
- Mức độ côn đồ, manh động…
Đều là căn cứ quan trọng để Tòa lượng hình. Hành vi càng nguy hiểm và hậu quả càng nghiêm trọng thì mức hình phạt phải tương xứng để bảo đảm tính răn đe và phòng ngừa.
3.4. Nhân thân người bị cáo khi quyết định hình phạt:
Tòa án phải xem xét nhân thân người bị cáo khi quyết định hình phạt. Đây là yếu tố phản ánh mức độ đáng tin cậy và khả năng cải tạo của bị cáo. Các tình tiết như:
- Tiền án, tiền sự;
- Quá trình sinh sống, làm việc;
- Việc chấp hành pháp luật trước đây;
- Thái độ sau khi phạm tội;
- Hay các thành tích trong lao động, công tác…
Đều được xem xét một cách toàn diện. Một người có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo… thường được xem xét giảm nhẹ so với người có nhân thân xấu và từng có nhiều lần vi phạm pháp luật.
Ngoài ra, Tòa án phải cân nhắc mục tiêu phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng khi quyết định hình phạt. Hình phạt không chỉ để trừng trị người phạm tội mà còn nhằm răn đe cộng đồng và ngăn chặn bị cáo tái phạm. Vì vậy, Tòa án phải lựa chọn hình phạt phù hợp để vừa thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật vừa đảm bảo khả năng cải tạo bị cáo, đưa họ trở lại xã hội như một công dân có ích. Đây là mục tiêu cơ bản nhưng quan trọng của hệ thống hình phạt.
THAM KHẢO THÊM:

Tư vấn pháp luật qua Zalo


