Một vấn đề rất quan trọng trong tố tụng hình sự là quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo, bởi nó cũng một trong những cơ sở quan trọng để đánh giá tính hiệu quả của quá trình tố tụng. Đôi khi, bị cáo bị coi là người đã có tội dù chưa có sự phán quyết của Tòa án, chính vì vậy quyền và nghĩa vụ của họ bị vi phạm rất nhiều.
Mục lục bài viết
1. Bị cáo là gì?
Quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự là một vấn đề rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tiến hành tố tụng. Trước kia bị can, bị cáo mặc nhiên bị coi là có tội, nên quyền của họ bị thu hẹp rất nhiều. Khắc phục những bất cập của
Thuật ngữ “bị cáo” đã được sử dụng trong nhiều sắc lệnh về tổ chức các cơ quan tư pháp do Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà kí từ năm 1945. Tuy nhiên, chỉ đến năm 1974 trong Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự (kèm theo Thông tư số 16/TATC ngày 27.9.1974 của Toà án nhân dân tối cao) mới đưa ra định nghĩa pháp lí về khái niệm bị cáo: “Bị cáo là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự trước toà án nhân dân”.
Theo quy định tại
2. Quyền của bị cáo:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 61 BLTTHS năm 2015, bị cáo có những quyền sau đây:
a) Nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;
b) Tham gia phiên tòa;
c) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
d) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài sản, người tham gia tố tụng khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa;
đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
g) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
h) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
i) Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa;
k) Nói lời sau cùng trước khi nghị án;
l) Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa;
m) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;
n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
o) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.”
Có thể thấy, so với quy định tại Điều 50 BLTTHS năm 2003, bị cáo có một số quyền mới sau:
Một là, quyền được “Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá”. Thường thì những chứng cứ, tài liệu, đồ vật này có ý nghĩa gỡ tội cho bị cáo, chứng minh bị cáo không phạm tội hoặc chứng minh những tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do vậy, Hội đồng xét xử khi nhận được các chứng cứ, tài liệu, đồ vật do bị cáo cung cấp thì phải tiến hành kiểm tra, đánh giá khách quan để xác định các chứng cứ, tài liệu, đồ vật đó có phải là chứng cứ trong vụ án hay không? và giá trị của nó trong việc xác định sự thật của vụ án.
Hai là, quyền “Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa”. Việc đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa sẽ làm tăng tính chủ động cho bị cáo, giúp bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình được tốt hơn, việc hỏi cũng như đối chất trực tiếp tại phiên tòa sẽ là căn cứ quan trọng làm cho việc xét xử được khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Ba là, quyền được “Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa”. Để tránh những thiếu sót trong việc ghi chép diễn biến tại phiên tòa, bị cáo có quyền xem biên bản phiên tòa và yêu cầu ghi những sửa đổi bổ sung vào biên bản đó, điều này đồng nghĩa với việc bị cáo đồng ý với quá trình xét xử nếu không có những yêu cầu bổ sung hoặc thay đổi khác.
Bốn là, bị cáo còn có “Các quyền khác theo quy định của pháp luật”. Những quyền này sẽ được thể hiện rõ sau khi các văn bản hướng dẫn có hiệu lực.
3. Nghĩa vụ của bị cáo:
Đi cùng với quyền thì bị cáo cũng có những nghĩa vụ nhất định, căn cứ theo khoản 3 Điều 61 BLTTHS bị cáo có nghĩa vụ:
Một là, có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Trường hợp vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã;
“Điều 290. Sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa
1. Bị cáo phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án trong suốt thời gian xét xử vụ án; nếu vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì bị áp giải; nếu bị cáo vắng mặt vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì phải hoãn phiên tòa.
Nếu bị cáo bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh hiểm nghèo thì Hội đồng xét xử tạm đình chỉ vụ án cho đến khi bị cáo khỏi bệnh.
Nếu bị cáo trốn thì Hội đồng xét xử tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị cáo.
2. Tòa án chỉ có thể xét xử vắng mặt bị cáo trong các trường hợp:
a) Bị cáo trốn và việc truy nã không có kết quả;
b) Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa;
c) Bị cáo đề nghị xét xử vắng mặt và được Hội đồng xét xử chấp nhận;
d) Nếu sự vắng mặt của bị cáo không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan và sự vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử”.
(i) Đây là nghĩa vụ của bị cáo:
Sự có mặt tại phiên tòa là quyền và nghĩa vụ của bị cáo vì họ là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự và có quyền bào chữa trước tòa. Sự có mặt của bị cáo tại phiên toà là bắt buộc, nhằm thực hiện nguyên tắc xét xử trực tiếp; bảo đàm cho Tòa án xác định sự thật khách quan và tạo điều kiện thuận lợi cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa tại phiên tòa theo quy định của pháp luật.
Bị cáo phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án. Bị cáo đang bị tạm giam phải được cơ quan công an, lực lượng cảnh vệ trong quân đội dẫn giải đến phiên tòa theo giấy triệu tập và kế hoạch xét xử của Tòa án.
Bị cáo tại ngoại phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án; nếu vắng mặt không có lý do chính đáng thì bị áp giải. Đối với bị cáo bị áp giải thì thời gian giải lao, nghỉ nghị án… phải chịu sự giám sát của cảnh sát hoặc cảnh vệ; nếu phiên tòa kéo dài trong nhiều ngày thì Hội đồng xét xử có thể quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc xét xử.
(ii) Trường hợp hoãn phiên tòa:
Trường hợp bị cáo vắng mặt có lý do chính đáng như do không nhận được giấy triệu tập của Tòa án, vì ốm đau, vì thiên tai không đến được phiên tòa thì phải hoãn phiên tòa.
(iii) Tòa án quyết định tạm đình chỉ vụ án trong các trường hợp:
– Bị cáo bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh hiểm nghèo khác như ung thư, lao phổi, đột quỵ… thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ vụ án cho đến khi bị cáo khỏi bệnh. Việc khẳng định bị cáo bị bệnh tâm thần hay bệnh hiểm nghèo khác cũng như kết luận bị cáo đã khỏi bệnh hay chưa do Hội đồng giám định pháp y kết luận bằng văn bản.
– Bị cáo trốn tránh thì Hội đồng xét xử tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị cáo.
(iv) Tòa án xét xử vắng mặt
Điều luật quy định Tòa án chỉ có thể xử vắng mặt bị cáo trong những trường hợp sau đây:
Bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả. Trong thời hạn 1 tháng kể từ khi có lệnh truy nã mà không bắt được bị cáo thì Tòa án phục hồi tố tụng và tổ chức phiên tòa xét xử vắng mặt bị cáo;
Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa. Không phải mọi trường hợp bị cáo đang ở nước ngoài Tòa án đều có thể xét xử vắng mặt. Để Tòa án có thề xét xử vắng mặt bị cáo, ngoài điều kiện bị cáo đang ở nước ngoài, phải thêm một điều kiện đủ nữa là Tòa án không thể triệu tập bị cáo đến phiên tòa được. Thông thường Tòa án không thể triệu tập bị cáo đến phiên tòa trong những trường hợp bị cáo đang ở một quốc gia mà Việt Nam chưa có hiệp định tương trợ tư pháp, bị cáo ở nước ngoài nhằm trốn tránh việc trừng phạt theo pháp luật Việt Nam, không rõ địa chỉ bị cáo ở nước ngoài…;
– Nếu sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xừ và họ đã được giao giấy triệu tập hợp lệ. Thông thường Tòa án xét xử vắng mặt bị cáo trong những trường hợp phạm tội đơn giản, rõ ràng, ít nghiêm trọng, chế tài quy định đối với tội phạm đó ít nghiêm khắc, bị cáo tại ngoại và nhận tội. Đây là những trường hợp bị cáo yêu cầu xét xử vắng mặt bị cáo.
Hai là, chấp hành quyết định, yêu cầu của Tòa án.
Khi bản án của Tòa được tuyên và có hiệu lực thi hành thì bị cáo phải thực hiện theo đúng nội dung đó, và đây có thể coi là bị cáo buộc phải cưỡng chế thực hiện.
Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 quy định theo hướng mở rộng quyền của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự có ảnh hưởng rất lớn tới công tác điều tra, truy tố, xét xử; góp phần nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Không nên coi việc mở rộng quyền cho bị can, bị cáo là làm yếu cuộc đấu tranh chống tội phạm.
Điều tra viên cần sử dụng mọi kỹ năng để thu thập những chứng cứ buộc tội và gỡ tội, tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm của bị can; Kiểm sát viên cần chủ động kiểm sát chặt chẽ ngay từ khi khởi tố điều tra cho đến khi truy tố, xét xử; Tòa án cần thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình bảo đảm tính công bằng, đúng đắn, chính xác trong quá trình xét xử. Mọi hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải được bảo đảm thực hiện khách quan, công bằng, đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định, bảo đảm việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử bị can, bị cáo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền của bị can, bị cáo được pháp luật tố tụng hình sự quy định.