Bắt khẩn cấp là một trong những biện pháp ngăn chăn trong tố tụng hình sự để nhằm đảm bảo cho hoạt động tố tụng cũng như quyền và lợi ích của công dân, tổ chức, nhà nước. Vậy biện pháp này được quy định như thế nào?
Mục lục bài viết
- 1 1. Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là gì?
- 2 2. Bình luận biện pháp bắt khẩn cấp, áp dụng biện pháp bắt khẩn cấp:
- 3 3. Khi nào được phép bắt người trong trường hợp khẩn cấp?
- 4 4. Áp dụng biện pháp bắt khẩn cấp trong trường hợp nào?
- 5 5. Áp dụng biện pháp bắt khẩn cấp tạm thời ở tòa án cấp Sơ thẩm:
- 6 6. Trường hợp bắt khẩn cấp là gì?
- 7 7. Quy định về lệnh bắt khẩn cấp trong tố tụng hình sự:
1. Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là gì?
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là biện pháp ngăn chặn mang tính cấp bách, qua xác minh ban đầu đã có tài liệu khẳng định một người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc khẳng định một người đã thực hiện tội phạm hay bị nghi thực hiện tội phạm, mà xét thấy cần ngăn chặn họ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Khi có một trong các căn cứ sau đây, thì cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng biện pháp bắt người:
a) Trường hợp thứ nhất: Một cá nhân, tổ chức đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Thời điểm sớm nhất của giai đoạn phạm tội này là thời điểm người phạm tội bắt đầu có hành vi tạo ra những điều kiện vật chất hoặc tinh thần giúp cho việc thực hiện hành vi phạm tội có thể xảy ra và xảy ra được thuận lợi, dễ dàng hơn.
b) Trường hợp thứ hai: Người đó đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn việc người đó trốn, điều đó có nghĩa là khi một tội phạm hoàn thành thì hành vi phạm tội đã có đủ các dấu hiệu nói lên được đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của loại tội đó.
Việc bắt người trong trường hợp này khác về bản chất so với trường hợp thứ nhất. Nếu như trong trường hợp thứ nhất, người bị bắt đang trong giai đoạn chuẩn bị thực hiện tội phạm, tức là tội phạm chưa hoàn thành, thì trong trường hợp thứ hai, tội phạm đã hoàn thành nhưng người thực hiện hành vi phạm vi phạm tội chưa bị bắt ngay khi đang thực hiện tội phạm; sau khi thực hiện xong một thời gian, thì người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm (có thể là người làm chứng hoặc người bị hại) đã trông thấy, xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm và báo ngay với cơ quan có thẩm quyền. Sau khi tiến hành xác minh tài liệu do những người này cung cấp và thấy rằng nếu không bắt ngay, đối tượng sẽ bỏ trốn, gây khó khăn cho việc điều tra, thì cơ quan có thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp.
c) Trường hợp thứ ba: Phát hiện công cụ phạm tội, tang vật tại hiện trường…, trong thực tế, hành vi chuẩn bị phạm tội có thể thể hiện ở một số dạng như: chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội; chuẩn bị kế hoạch phạm tội; thăm dò địa điểm phạm tội, thăm dò, làm quen với nạn nhân hoặc người bị hại.
Khám xét chỗ ở, khám người, kiểm tra hành chính, cơ quan có thẩm quyền bằng các nghiệp vụ điều tra tội phạm và phát hiện và đấu tranh phát hiện tội phạm, với ý nghĩa hủy việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Lưu ý, trong tội phạm có bốn yếu tố là khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan. Nhưng chỉ có yếu tố mặt khách quan là quan trọng nhất trong việc xác định các giai đoạn thực hiện tội phạm. Cơ quan điều tra cần xác định điều kiện tiếp theo, đó là có cần ngăn chặn người bị tình nghi thực hiện tội phạm bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ hay không?
Viện kiểm sát cùng cấp để xét phê chuẩn sau khi tiến hành áp dụng biện pháp bắt khẩn cấp, người ra lệnh bắt khẩn cấp phải gửi ngay lệnh bắt khẩn cấp, biên bản về việc bắt khẩn cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát nơi gần nhất nếu không có.
Khi bắt khẩn cấp thì viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ. Trong trường hợp thấy cần thiết, Viện kiểm sát phải cử kiểm sát viên phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước khi xem xét, sau Viện kiểm sát quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.
2. Bình luận biện pháp bắt khẩn cấp, áp dụng biện pháp bắt khẩn cấp:
Biện pháp ngăn chặn bắt khẩn cấp khác với các biện pháp tố tụng khác ở mục đích áp dụng chúng. Mục đích của biện pháp bắt khẩn cấp này là:
– Kịp thời ngăn chặn tội phạm
– Tránh các trường hợp việc bị can, bị cáo sẽ gây thêm tội phạm làm khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử.
– Không để cho bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội.
– Bảo đảm việc thi hành án.
Trong khi đó, các biện pháp cưỡng chế về tố tụng hình sự khác như khám xét, xem xét dấu vết trên thân thể có mục đích bảo đảm thu thập chứng cứ; các biện pháp kê biên tài sản, áp giải, tạm đình chỉ chức vụ bị can đang đảm nhiệm có mục đích bảo đảm tiến hành tố tụng.
Biện pháp ngăn chặn bắt khẩn cấp không có tính chất trừng phạt, bởi lẽ đối với người bị áp dụng chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật; chúng chỉ mang tính chất bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử được thực hiện thuận lợi. Vì vậy, trong thực tế hoàn toàn có khả năng một người phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng lại không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn.
Những tài liệu, bằng chứng, chứng cứ về việc bị can, bị cáo tiếp tục thực hiện tội phạm, sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hay có thể trốn tránh việc điều tra, truy tố, xét xử, hoặc sẽ cản trở việc thi hành án đó được coi là cơ sở pháp lý để cơ quan tiến hành tố tụng hoặc người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn. Thêm vào đó những tài liệu, chứng cứ này phải đáp ứng những căn cứ do Bộ luật này quy định.
Trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, nếu không có cơ sở pháp lý nói trên, thì không được áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt khẩn cấp.
Theo quy định tại Điều 110 của
– Các cơ quan tố tụng: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án nếu nhận thấy có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
– Tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn.
– Cảnh sát điều tra, Kiểm sát viên phát có dấu vết của tội phạm trên người, dấu trong người, kiểm tra nhà ở, phòng ngủ, các phương tiện giao thông của người bị tình nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ, tẩu tán tang chứng, vật chứng.
– Người bị giữ được biết lý do bị giữ, căn cứ pháp lý giữ người quy định tại khoản 1 Điều này và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này. Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải ghi rõ họ tê của người bị giữ, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải theo đúng quy định của Bộ luật này thì mới được thi hành lệnh giữ người.
3. Khi nào được phép bắt người trong trường hợp khẩn cấp?
Tại điều 81 (chương VI – Quy định những biện pháp ngăn chặn) có nêu rõ: Trong những trường hợp sau đây thì được bắt khẩn cấp:
a) Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
c) Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Điều 81 Bộ luật tố tụng hình sự cũng quy định rõ, những người sau đây có quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp: Thủ trưởng, phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
Ngoài ra, luật cũng quy định chi tiết: Trong mọi trường hợp, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho Viện KSND cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn.
Viện KSND phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ bắt khẩn cấp quy định tại điều này. Trong trường hợp cần thiết, Viện KSND phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.
Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, Viện KSND phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu Viện KSND quyết định không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt.
4. Áp dụng biện pháp bắt khẩn cấp trong trường hợp nào?
Căn cứ Bộ luật Tố tụng hình sự, tại Điều 81 (chương VI – Quy định những biện pháp ngăn chặn) có nêu rõ: Trong những trường hợp sau đây thì được bắt khẩn cấp:
a) Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
c) Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Điều 81 Bộ luật tố tụng hình sự cũng quy định rõ, những người sau đây có quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp: Thủ trưởng, phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
Ngoài ra, luật cũng quy định chi tiết: Trong mọi trường hợp, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho Viện KSND cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn.
Viện KSND phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ bắt khẩn cấp quy định tại điều này. Trong trường hợp cần thiết, Viện KSND phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.
Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, Viện KSND phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu Viện KSND quyết định không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt.
5. Áp dụng biện pháp bắt khẩn cấp tạm thời ở tòa án cấp Sơ thẩm:
Để áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại phiên tòa sơ thẩm thì cần phải đáp ứng những điều kiện gì? Trình tự thủ tục ra sao?
a. Quyền yêu cầu áp dụng.
* Người có quyền yêu cầu: Người có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT được quy định tại khoản 1 Điều 99 BLTTDS và được hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2005 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn một số quy định tại Chương VIII “ các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của Bộ luật tố tụng dân sự, theo đó bao gồm những người sau: Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự; Cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình trong trường hợp do
Về nguyên tắc, tòa án chỉ được quyết định áp dụng BPKCTT khi có đơn yêu cầu của đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Tuy nhiên, trong một số trường hợp tòa án có thể ra quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT. Đó là 5 trường hợp được quy định tại Điều 119 BLTTDS. Và khi tự mình ra quyết định áp dụng một BPKCTT cụ thể, ngoài việc phải thực hiện đúng quy định tại điều luật tương ứng của BLTTDS, Toà án cần phải căn cứ vào các quy định của pháp luật liên quan để có quyết định đúng. Việc pháp luật quy định tòa án chỉ có quyền áp dụng các BPKCTT trong một số trường hợp mà không được phép áp dụng trong mọi trường hợp nhằm đảm bảo quyền yêu cầu của đương sự được thực hiện một cách có hiệu quả nhất có thể.
* Điều kiện áp dụng: Theo quy định tại Nghị quyết số 02/2005 thì chỉ khi có đầy đủ các điều kiện sau đây, đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện (đơn khởi kiện phải được làm theo đúng quy định tại Điều 164 của BLTTDS), thì cá nhân, cơ quan, tổ chức mới có quyền yêu cầu Toà án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng BPKCTT quy định tại Điều 102 của BLTTDS: Do tình thế khẩn cấp, tức là cần phải được giải quyết ngay, không chậm trễ; Cần phải bảo vệ ngay bằng chứng trong trường hợp nguồn chứng cứ đang bị tiêu huỷ, có nguy cơ bị tiêu huỷ hoặc sau này khó có thể thu thập được; Ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra (có thể là hậu quả về vật chất hoặc phi vật chất). Ngoài ra, Toà án chỉ tự mình ra quyết định áp dụng một BPKCTT cụ thể khi có đầy đủ các điều kiện do BLTTDS quy định đối với BPKCTT đó.
b. Thẩm quyền áp dụng.
Theo quy định tại Điều 100 BLTTDS thì thẩm quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT thuộc về tòa án thụ lý giải quyết vụ việc. trước khi mở phiên toà do một Thẩm phán xem xét, quyết định, tại phiên toà do Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.
c. Trình tự, thủ tục áp dụng.
Theo Điều 117 BLTTDS thì trước tiên người yêu cầu phải làm đơn gửi đến Toà án có thẩm quyền với đầy đủ nội dung được quy định trong khoản 1 Điều 117. Tuỳ theo từng yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cu thể mà người yêu cầu phải cung cấp cho Toà án chứng cứ để chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó.
Thủ tục áp dụng BPKCTT được hướng dẫn chi tiết tại mục 5 Nghị quyết số 02/2005. Theo đó: Trong quá trình giải quyết vụ án, thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải phải xem xét đơn và các chứng cứ kèm theo. Nếu đơn yêu chưa làm đúng thì Thẩm phán yêu cầu họ phải sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu. Nếu chứng cứ chưa đủ thì đề nghị người yêu cầu cung cấp bổ sung chứng cứ.. Sau khi xem xét và nghe ý kiến, nếu chấp nhận yêu, thì Thẩm phán ra ngay quyết định áp dụng BPKCTT. Trường hợp người đó phải thực hiện biện pháp bảo đảm thì ngay sau khi người đó xuất trình chứng cứ đã thực hiện biện pháp bảo đảm, thì Thẩm phán ra ngay quyết định áp dụng BPKCTT. Trường hợp không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết.
Tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận được đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT, thì Hội đồng xét xử phải xem xét đơn và các chứng cứ kèm theo, hỏi ý kiến của người yêu cầu và người bị yêu cầu áp dụng BPKCTT, thảo luận và thông qua tại phòng xử án. Trong trường hợp chấp nhận mà người yêu cầu không phải thực hiện biện pháp bảo đảm, thì Hội đồng xét xử ra ngay quyết định áp dụng BPKCTT; Trong trường hợp chấp nhận mà người yêu cầu phải thực hiện biện pháp bảo đảm, thì Hội đồng xét xử ra ngay quyết định áp dụng BPKCTT khi họ xuất trình chứng cứ đã thực hiện xong biện pháp bảo đảm;Trong trường hợp không chấp nhận, thì Hội đồng xét xử không phải ra quyết định, nhưng phải thông báo công khai tại phiên toà việc không chấp nhận, nêu rõ lý do và phải ghi vào biên bản phiên toà.
Trường hợp yêu cầu áp dụng BPKCTT thực hiện cùng với việc khởi kiện thì sau khi nhận đơn, Chánh án Toà án chỉ định ngay một Thẩm phán thụ lý giải quyết đơn yêu cầu. Trong thời hạn 48 giờ kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu, Thẩm phán phải xem xét và ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; nếu không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết.
6. Trường hợp bắt khẩn cấp là gì?
Trường hợp bắt khẩn cấp
Bắt khẩn cấp là một trong những biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa việc tiếp tục phạm tội, bảo đảm thuận lợi cho việc giải quyết vụ án.
Có 3 trường hợp bắt khẩn cấp:
TH1: Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
TH2: Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn
Trường hợp này cần thỏa mãn đồng thời 2 điều kiện:
-Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm( nghe kể lại thì không thuộc trường hợp này)
-Cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn( thực tế trốn và khẳ năng trốn).
TH3: Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ.
Trường hợp này cần thỏa mãn đồng thời 2 điều kiện:
– Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm
– Thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ.
7. Quy định về lệnh bắt khẩn cấp trong tố tụng hình sự:
Tóm tắt câu hỏi:
Tôi có người nhà bị bắt và đã kí vào lệnh bắt khẩn cấp nhưng sau đó lại được cho tại ngoại và hẹn triệu tập vậy người nhà tôi có thể được xét thay đổi lệnh bắt trong trường hợp nào không?
Luật sư tư vấn:
Tại Điều 110 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về những trường hợp được bắt người khẩn cấp:
“Điều 110. Giữ người trong trường hợp khẩn cấp
1. Khi thuộc một trong các trường hợp khẩn cấp sau đây thì được giữ người:
a) Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
c) Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
2. Những người sau đây có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp:
a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
b) Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực truộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng;
c) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
3. Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị giữ, lý do, căn cứ giữ người quy định tại khoản 1 Điều này và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này. Việc thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 113 của Bộ luật này.
4. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn.
Sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, những người quy định tại điểm c khoản 2 Điều này phải giải ngay người bị giữ kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp đến Cơ quan điều tra nơi có sân bay hoặc bến cảng đầu tiên tàu trở về. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi tiếp nhận người bị giữ, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a khoản 2 Điều này phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn.
Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị giữ, lý do, căn cứ giữ người quy định tại khoản 1 Điều này và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này.
Căn cứ vào quy định này thì những trường hợp được bắt người khẩn cấp như sau:
– Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
– Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
– Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ.
Người có quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp bao gồm:
– Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
– Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;
– Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
Lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và có đóng dấu.
Người thi hành lệnh phải đọc lệnh, giải thích lệnh, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt.
Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.
Trong mọi trường hợp, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt.
Tại Điều 118 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về thời hạn tạm giữ như sau:
“Điều 118. Thời hạn tạm giữ
1. Thời hạn tạm giữ không quá 03 ngày kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt hoặc áp giải người bị giữ, người bị bắt về trụ sở của mình hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú, đầu thú.
2. Trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá 03 ngày. Trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá 03 ngày.
Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận hồ sơ đề nghị gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.
3. Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ; trường hợp đã gia hạn tạm giữ thì Viện kiểm sát phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
4. Thời gian tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam
Tại Điều 121 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có quy định về bảo lĩnh như sau:
“Điều 121. Bảo lĩnh
1. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh.
2. Cơ quan, tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người của cơ quan, tổ chức mình. Cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức.
Cá nhân là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh thì có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ và trong trường hợp này thì ít nhất phải có 02 người. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập.
Trong giấy cam đoan, cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh phải cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều này. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc nhận bảo lĩnh.
3. Bị can, bị cáo được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ:
a) Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;
b) Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội;
c) Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam.
4. Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định bảo lĩnh. Quyết định của những người quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
5. Thời hạn bảo lĩnh không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn bảo lĩnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.
6. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị phạt tiền theo quy định của pháp luật.
Căn cứ vào quy định này thì biện pháp bảo lĩnh được hiểu như sau:
+ Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh;
+ Cá nhân có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ. Trong trường hợp này thì ít nhất phải có hai người. Tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức của mình;
+ Khi nhận bảo lĩnh, cá nhân hoặc tổ chức phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án. Khi làm giấy cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc nhận bảo lĩnh.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có quy định về những trường hợp không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác:
– Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác;
– Trừ những trường hợp sau đây:
+ Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
+ Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
+ Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Như vậy, căn cứ vào quy định của
Trong trường hợp của bạn có nêu rằng người nhà của bạn bị bắt khẩn cấp sau đó được cho tại ngoại và hẹn triệu tập. Vấn đề đặt ra ở đây là tại ngoại chỉ được áp dụng trong trường hợp.
+ Người thân thích, tổ chức có nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức của mình;
+ Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng.
Cho nên đối với trường hợp người nhà của bạn khi có lệnh bắt khẩn cấp để tạm giữ, nhưng do không đủ căn cứ khởi tố nên đã trả lại tự do cho người nhà của bạn.
Trường hợp bên phía cơ quan Công an có hẹn triệu tập là có lý do, có thể người nhà bạn thuộc đối tượng nghi ngờ phạm tội vào một vụ án nào đó mà cơ quan Công an đang tiến hành điều tra.