Vốn đầu tư kinh doanh và vốn pháp định giống nhau hoặc không. Tài nguyên có thể là của cải vật chất của tài nguyên thiên nhiên như sức lao động cũng như tất cả các tài sản vật chất khác. Vậy quy định về ý nghĩa pháp lý, bản chất và vai trò của Vốn pháp định được quy định như thế nào.
Mục lục bài viết
1. Vốn pháp định là gì?
Trong hoạt động kinh doanh và thương mại, vốn được coi là giá trị ban đầu trong các quy trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp. Do đó, vốn là một yếu tố không thể thiếu của hoạt động sản xuất kinh doanh, mà điều kiện đầu tiên để hoạt động kinh doanh.
Nguồn vốn là nguồn vốn đầu tư; nó là tích lũy lượng biểu hiện dưới dạng giá trị được chuyển thành vốn đầu tư để đáp ứng các yêu cầu phát triển của xã hội. Đây là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát triển kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và xã hội.
Theo khoản 2 Điều 9
Trong thời kỳ hội nhập ở Việt Nam, thuật ngữ này còn được dùng để chỉ nội lực của từng doanh nghiệp khi đầu tư, kinh doanh trong quá trình tham gia thị trường hàng hóa. Vốn đầu tư kinh doanh có nghĩa là tất cả chi phí đầu tư kinh doanh nhằm mục đích sinh lời của các chủ thể kinh doanh. Giá vốn của doanh nghiệp được hình thành từ vốn góp bởi các thành viên của công ty, luật pháp gọi đó là góp vốn, “Vốn góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty.
Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập kinh doanh hoặc bổ sung vốn điều lệ của doanh nghiệp đã thành lập ”. Theo quy định tại Khoản 29 Điều 4
Có nghĩa là các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam được liên kết cùng bằng tài sản để kinh doanh sinh lời, tài sản này được gọi là vốn điều lệ để tạo vốn đầu tư kinh doanh. Theo tìm hiểu của chúng tôi, tại Việt Nam, vốn pháp định được công nhận là số vốn tối thiểu theo quy định của pháp luật để thành lập một nền kinh tế tổ chức với tư cách là một pháp nhân hoặc thể nhân, đó là một quy phạm pháp luật. Các yêu cầu bắt buộc tối thiểu đối với các tổ chức quyết định tham gia vào một số ngành, nghề kinh doanh phải tuân theo các quy định bắt buộc về vốn pháp định đó. Hợp pháp vốn còn được hiểu là thước đo để kiểm tra khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Từ các yêu cầu thực tế về lợi nhuận trong hợp tác kinh doanh, mọi hoạt động kinh doanh nhà đầu tư phải thiết lập một lượng tài sản nhất định, nghĩa là họ phải có năng lực tài chính, thường được định nghĩa là vốn. Nhưng những gì về pháp lý vốn.
Quá trình hình thành, phát triển và cơ bản, đặc điểm của vốn pháp định trong kinh doanh theo luật doanh nghiệp:
Theo quy định của pháp luật hiện hành, cụ thể là theo
2. Bàn về ý pháp lý, bản chất và vai trò của vốn pháp định:
Dưới góc độ khoa học pháp lý, nhìn chung, việc điều tiết vốn pháp định trong luật doanh nghiệp Việt Nam có những đặc điểm sau:
Vốn pháp định tại Việt Nam được xác định theo từng dòng doanh nghiệp cụ thể , không áp dụng cho từng loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế. Trong điều kiện lịch sử hình thành và phát triển của luật kinh doanh, quy định về giới hạn pháp lý ital ở Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, nhưng nhận thấy rằng: Vốn pháp định ở Việt Nam chưa từng được áp dụng cho mỗi loại hình doanh nghiệp như nhiều quốc gia khác đã và đang làm. Khoản 3 Điều 7 của
Trong giai đoạn từ năm 1991 đến năm 1999, vốn pháp định đã được áp dụng rộng rãi trong nhiều các ngành theo yêu cầu của Luật Công ty 1990 và Luật Tư nhân Doanh nghiệp 1990. Mỗi lĩnh vực Chính phủ quy định một lượng nhất định vốn yêu cầu. Doanh nghiệp tại Việt Nam phải đáp ứng các điều kiện rất cụ thể phải có xác nhận của ngân hàng nơi doanh nghiệp mở tài khoản hoặc có xác nhận của Phòng Công chứng Nhà nước về tài sản góp vốn bằng hiện vật khi thành lập. Như vậy, vốn pháp định được áp dụng trong nhiều ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp giai đoạn 1991-1999 là tương đối khó khăn đối với doanh nghiệp. Có thể thấy rằng những rào cản này không hiệu quả trong thực tế nhưng vì nhà nước quy định rằng mức vốn tối thiểu quá thấp, không nhất quán và không phản ánh ý nghĩa của quy định về mức vốn. Pháp luật nhằm đảm bảo mức tối thiểu tài sản của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp và đối với khách hàng.
Cho đến năm 1999 khi Luật Doanh nghiệp được thông qua, vốn pháp định đã nhiều hơn được phân định rõ ràng và cụ thể, tuy nhiên, nó vẫn rất phụ thuộc vào những điều kiện chính vốn khá khó khăn như trong rất ít lĩnh vực kinh doanh.
Cụ thể, tính đến năm 2003, mặc dù chỉ có một số ngành, nghề nhưng doanh nghiệp phải chứng minh vốn pháp định như kinh doanh tiền tệ – tín dụng, bảo hiểm kinh doanh, kinh doanh chứng khoán và kinh doanh vàng. Nhưng các thủ tục giấy tờ liên quan đến việc này ngành, nghề kinh doanh có điều kiện còn có chế độ chính sách, chưa được cởi trói cho. doanh nghiệp đầu tư kinh doanh. Sau đó, khi Luật Doanh nghiệp 2005 được ban hành, với danh sách khổng lồ gần 2.000 (hai nghìn) ngành nghề kinh doanh có điều kiện, hợp pháp vốn tiếp tục được áp dụng cho một số ngành như kinh doanh tiền tệ – tín dụng, kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bất động sản, thu hồi nợ kinh doanh dịch vụ, kinh doanh dịch vụ bảo vệ, kinh doanh vận tải hàng không, sân bay kinh doanh, kinh doanh cung ứng dịch vụ hàng không, kinh doanh sản xuất phim, kinh doanh trao đổi hàng hóa và kinh doanh dịch vụ kiểm toán độc lập. Ví dụ, theo thứ tự kinh doanh dịch vụ đòi nợ phải có từ 2 tỷ đồng trở lên, bất động sản kinh doanh phải có vốn tối thiểu 6 tỷ đồng.
Nếu so sánh quy định của nhiều nước trên thế giới thì vốn pháp định để thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam có một cách tiếp cận hoàn toàn khác. Ở đó, hộ gia đình quy định vốn pháp định áp dụng cho từng loại hình doanh nghiệp, hoặc một mức thống nhất cho các doanh nghiệp, không áp dụng cho từng ngành nghề kinh doanh cụ thể như trong Việt Nam và Lào. Như vậy, việc tiếp cận vốn pháp định áp dụng trong từng lĩnh vực cụ thể lĩnh vực kinh doanh của Việt Nam tương tự như luật kinh doanh của nhân dân Lào Cộng hòa dân chủ mà quốc gia cũng quy định vốn pháp định, xác định theo từng ngành nghề kinh doanh cụ thể. Có thể thấy rằng vấn đề này được thể hiện bằng chứng sau: Ở Phần Lan, vốn pháp định để thành lập doanh nghiệp mà đất nước này nói chung là 2.500 euro. Ở Cộng hòa Dominica kể từ 2011 họ yêu cầu các nhà đầu tư phải có ít nhất 100.000 Peso Dominica (khoảng USD 2,855) để thành lập công ty TNHH.
Về mặt khoa học pháp lý, không nhất thiết phải quy định vốn pháp định cụ thể, cấp cho từng loại hình doanh nghiệp hoặc ngưỡng thống nhất cho tất cả các doanh nghiệp như một số các nước trên thế giới. Về mặt pháp lý, các nhà đầu tư tại Việt Nam khi thành lập kinh doanh, chỉ có thể đăng ký với số vốn khiêm tốn 1.000 đồng, không trái với quy định của pháp luật. Có thể nói, quy định về vốn pháp định của Việt Nam là thực sự thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tham gia thị trường, trong phù hợp với chủ trương phát huy nội lực. Dựa theo thống kê, năm 2010, Việt Nam có khoảng 85.000 tư nhân được thành lập mới doanh nghiệp có vốn đăng ký khoảng 500 nghìn tỷ đồng Việt Nam trong 63 tỉnh và thành phố. Vốn đăng ký bình quân của mỗi doanh nghiệp là gần 6 tỷ đồng. Cũng theo Tổng cục Thống kê, đến cuối năm Tháng 12 năm 2014, cả nước có hơn 400.000 doanh nghiệp đang hoạt động đây là con số cao nhất kể từ năm 2011.
3. Vốn pháp định quy định trong pháp luật Việt Nam:
Quy định về vốn pháp định cụ thể ở Việt Nam được quy định tại các luật do Quốc hội ban hành rất mới và nhìn chung được xác định chủ yếu bởi cấp dưới làm giám định của các cơ quan chức năng. Kế thừa các quy định của Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005, hiện hành Luật Kinh doanh ở Việt Nam cũng áp dụng các quy định về một số ngành nghề kinh doanh có điều kiện ngành, nghề kinh doanh phải có vốn, nghĩa là hợp pháp vốn chỉ áp dụng đối với hình thức kinh doanh có điều kiện. Ví dụ, Luật kinh doanh nhà ở, luật kinh doanh chứng khoán, luật kinh doanh bảo hiểm, Luật Tổ chức ngân hàng … Như vậy, chỉ có Quốc hội, Thường vụ Ủy ban của Quốc hội và Chính phủ có quyền quy định về điều kiện kinh doanh trong một số ngành nghề theo quy định của pháp luật. Điều này có nghĩa là vốn pháp định có thể tồn tại trong các văn bản pháp luật do Quốc hội hoặc trong các văn bản dưới luật do Quốc hội ban hành Ủy ban thường vụ và Chính phủ. Trên thực tế, tại Việt Nam, danh sách các các ngành nghề kinh doanh yêu cầu vốn pháp định chỉ được liệt kê trong các nghị định do Chính phủ, trong khi luật và pháp lệnh do Quốc gia ban hành Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội. đóng một vai trò hướng dẫn là cơ bản, có thể nói là khá mờ nhạt, không cụ thể. Ví dụ, Luật về Kinh doanh Bất động sản do Quốc hội ban hành chỉ ngày 29 tháng 6 năm 2006 khẳng định kinh doanh bất động sản là ngành phải có vốn pháp định.