Huyện Thanh Chương là một huyện trung du và miền núi nằm ở phía tây nam của tỉnh Nghệ An, Việt Nam, được biết đến với lịch sử lâu đời và văn hóa đa dạng, phản ánh sự giao thoa giữa các dân tộc Kinh, Thái, Mông và Đan Lai. Xin mời bạn đọc cùng theo dõi bài viết dưới đây: Bản đồ và các xã phường thuộc Thanh Chương (Nghệ An).
Mục lục bài viết
1. Bản đồ hành chính huyện Thanh Chương (Nghệ An):
Thanh Chương là một huyện nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Huyện có vị trí địa lý đặc biệt khi giáp với huyện Đô Lương và huyện Nam Đàn ở phía Đông, tỉnh Hà Tĩnh ở phía Nam, huyện Anh Sơn ở phía Bắc, giáp với tỉnh Bôlykhămxay của Lào ở phía Tây với đường biên giới dài khoảng 53 km.
Thanh Chương có diện tích tự nhiên là 1.228,3 km² và dân số vào năm 2019 là 240.808 người.
Huyện Thanh Chương được thành lập theo Quyết định số 141/QĐ-HĐBT ngày 27 – 10 – 1984 của Hội đồng Bộ trưởng, trên cơ sở tách 64ha của xã Đồng Văn, 124ha của xã Thanh Đồng và 92ha của xã Thanh Ngọc.
Huyện Thanh Chương được biết tới với tên gọi xa xưa là Dùng, Truông Dùng, Chợ Dùng, Cây đa Dùng, bến đò Dùng, cầu Dùng, di chỉ văn hóa Dùng, Rạng,… đã gắn với chiều dài lịch sử và tiềm thức người dân.
Ngày 27/10/1984, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), ban hành Quyết định số 141/QĐ-HĐBT, Dùng được lấy tên mới là Thị trấn Thanh Chương. Từ đó, trong các văn bản hành chính đều thống nhất tên gọi là thị trấn Thanh Chương nhưng địa danh Dùng vẫn được lưu giữ trên cột số hay giao dịch, trao đổi dân sự,…
Thanh Chương được UNESCO công nhận là một phần của Khu dự trữ sinh quyển Thế giới vào tháng 9/2017, điều này góp phần nâng cao giá trị bảo tồn và phát triển bền vững của huyện.
2. Huyện Thanh Chương (Nghệ An) có mấy xã, phường?
Huyện Thanh Chương có 38 đơn vị hành chính cấp phường xã. Trong đó bao gồm 1 thị trấn, 37 xã:
STT | Danh sách xã, phường thuộc huyện Thanh Chương |
1 | Thị trấn Thanh Chương (huyện lỵ) |
2 | Xã Cát Văn |
3 | Xã Đại Đồng |
4 | Xã Đồng Văn |
5 | Xã Hạnh Lâm |
6 | Xã Ngọc Lâm |
7 | Xã Ngọc Sơn |
8 | Xã Phong Thịnh |
9 | Xã Thanh An |
10 | Xã Thanh Chi |
11 | Xã Thanh Đồng |
12 | Xã Thanh Đức |
13 | Xã Thanh Dương |
14 | Xã Thanh Giang |
15 | Xã Thanh Hà |
16 | Xã Thanh Hòa |
17 | Xã Thanh Hương |
18 | Xã Thanh Khai |
19 | Xã Thanh Khê |
20 | Xã Thanh Lâm |
21 | Xã Thanh Liên |
22 | Xã Thanh Lĩnh |
23 | Xã Thanh Long |
24 | Xã Thanh Lương |
25 | Xã Thanh Mai |
26 | Xã Thanh Mỹ |
27 | Xã Thanh Ngọc |
28 | Xã Thanh Nho |
29 | Xã Thanh Phong |
30 | Xã Thanh Sơn |
31 | Xã Thanh Thịnh |
32 | Xã Thanh Thủy |
33 | Xã Thanh Tiên |
34 | Xã Thanh Tùng |
35 | Xã Thanh Xuân |
36 | Xã Thanh Yên |
37 | Xã Võ Liệt |
38 | Xã Xuân Tường |
3. Điều kiện tự nhiên của huyện Thanh Chương (Nghệ An):
Địa hình:
Địa hình của huyện Thanh Chương rất đa dạng. Sự đa dạng này là kết quả của một quá trình kiến tạo lâu dài và phức tạp. Đồi núi và trung du là địa hình chiếm phần lớn diện tích đất đai của huyện. Ngọn núi hùng vĩ nhất là núi Giăng Màn, có đỉnh cao 1.026 m, tạo thành ranh giới tự nhiên với tỉnh Bolykhamxay (Lào). Tiếp theo là đỉnh Nác Lưa cao 838 m, đỉnh Vũ Trụ cao 987 m, đỉnh Bè Noi cao 509 m, đỉnh Đại Cạn cao 528 m, đỉnh Thác Muối n cao 328 m. Núi đồi chồng lên nhau tạo thành những cánh rừng bất tận. Bên hữu ngạn sông Lam, đồi núi xen kẽ nhau, có đoạn chạy dọc, có đoạn chạy ngang, có đoạn dọc theo bờ sông, cắt vùng Thanh Chương thành nhiều mảng, tạo thành những cánh đồng nhỏ hẹp. Chỉ có các huyện Thanh Xuân, Võ Liệt, Thanh Liên là có cánh đồng tương đối lớn. Bên tả ngạn sông Lam, từ chân núi Cuồi đến Rú Dung, núi đồi xếp thành hình bát úp ngược, trong đó có đỉnh Côn Vinh cao 188m, núi Nguộc Ngọc cao 109 m.
Thổ nhưỡng:
Tương tự như các vùng miền núi khác trong tỉnh, do khai thác lâu dài và bồi trúc kém nên đất đai Thanh Chương cằn cỗi, thoái hóa nhanh, ngoại trừng vùng đất phù sa màu mỡ ven sông Lam, sông Giang.
Về thổ nhưỡng: Thanh Chương có 7 nhóm đất (theo thứ tự từ nhiều đến ít): Phong phú nhất là đất pheralit đỏ vàng đồi núi thấp, sau đó là đất pheralit đỏ vàng ở vùng đồi núi, đất phù sa, đất pheralit xói mòn trơ sỏi đá, đất pheralit mùn vàng trên núi, đất lúa vùng đồi núi và đất nâu vàng hình thành trên đất phù sa cổ và lũ tích.
Khí hậu:
Thanh Chương nằm trong vùng tiểu khí hậu Bắc Trung Bộ (nhiệt đới gió mùa), một năm có đủ bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Mùa hè có gió Tây Nam (gió Lào) rất nóng nực. Mùa thu thường mang theo nhiều mưa và kéo theo bão lũ. Có gió mùa Đông Bắc rét buốt vào mùa đông và mùa xuân. Khí hậu khắc nghiệt của Thanh Chương đã ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt của con người, cây trồng, vật nuôi. Dù thời tiết khắc nghiệt, gây nhiều khó khăn trong sản xuất, đời sống nhưng người dân Thanh Chương đã tạo ra những sản phẩm đặc trưng cho từng vùng miền bằng sự cần cù, kiên trì.
Rừng:
Rừng Thanh Chương có nhiều lâm sản quý như: Lim xanh, táu, de, dổi vàng tâm,… cũng như các loài khác như song, mây, tre, nứa, luồng mét,… Hệ thực vật của rừng rất phong phú về chủng loại, trong đó, rừng lá rộng nhiệt đới là phổ biến nhất. Rừng có độ che phủ là 42,17% (năm 2000). Động vật rừng, từ xưa có nhiều voi, hổ, nai, khỉ, lợn rừng,… Nay động vật còn lại không nhiều nhưng còn hệ thực vật rừng, tuy bị chặt phá nhiều nhưng trữ lượng gỗ vẫn còn khá lớn. Tính đến năm 2000, trữ lượng gỗ có 2.834.780 m3 (trong đó, rừng trồng 95.337 m3, rừng tự nhiên 2.739.443 m3), tre, nứa, mét khoảng hàng trăm triệu cây.
Khoáng sản:
Thanh Chương có trữ lượng đá vôi khá lớn ở Hành Lâm, Thanh Ngọc, Thanh Mỹ; đá granite ở Thanh Thủy; đá cuội, sỏi ở bãi ven sông Lam, sông Giang; đất sét ở Thanh Lương, Thanh Khai, Thanh Dương, Thanh Ngọc,… Trong lòng đất có thể còn có các khoáng chất khác nhưng chưa được ngành địa chất tìm hiểu, nghiên cứu kỹ lưỡng.
Sông ngòi:
Sông Lam (tức sông Cả) bắt nguồn từ Thượng Lào, chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam qua các vùng Kỳ Sơn, Tương Dương, Con Cuông, Anh Sơn, Đô Lương, chảy dọc qua huyện Thanh Chương, chia vùng này thành hai vùng: Hữu ngạn và tả ngạn. Sông Lam là tuyến đường thủy quan trọng. Nó bồi đắp phù màu mỡ ven sông nhưng trở nên hung hãn vào mùa mưa và thường gây lũ lụt ở vùng đồng bằng. Sông Lam còn có các phụ lưu trong địa bàn Thanh Chương như sông Giăng, sông Trai, sông Rộ, sông Nậy, sông Triều và sông Đa Cường (Rào Gang).
Với thống sông ngòi chằng chịt của huyện, ngoài tuyến đò dọc, từ lâu đời, hàng chục bến đò ngang đã được mở ra nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông, giao lưu giữa các vùng trong huyện.
Cảnh quan:
Vì địa thế hiểm trở của sông núi nên Thanh Chương có vị trí chiến lược, quân sự quan trọng. Người xưa coi cảnh quan Thanh Chương là “tứ tắc” (ngăn lấp cả bốn mặt). Đồng thời, Thanh Chương với cảnh núi non trùng điệp, sông ngòi bao quanh tạo nên một vẻ “phong cảnh hữu tình” nên thơ, đẹp như tranh thủy mặc. Các danh lam thắng cảnh như Thác Muối, vực Cối, rú Nguộc, ngọn Tháp Bút, dãy Giăng Màn,… đã tô điểm thêm cho cảnh quan Thanh Chương. Người xưa từng ca ngợi: Hình thế Thanh Chương đẹp nhất ở xứ Hữu Kỳ (vùng đất từ Quảng Trị ra Thanh Hoàn).
4. Vài nét về đặc điểm văn hóa, xã hội và truyền thống tại huyện Thanh Chương:
Người dân của huyện vừa có yếu tố truyền thống lâu đời của Thanh Ngọc, Đồng Văn, Thanh Đồng truyền thống lâu đời, vừa có yếu tố “ động” của bộ phận nhập cư gắn với quá trình công tác của đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức các cơ quan, bệnh viện, trường học, nhà máy, v.v. Cộng đồng dân cư truyền thống mang đậm bản sắc của những người đã gắn bó lâu đời với vùng đất này cũng như một số bộ phận “tinh hoa” đến từ các miền quê khác. Qua quá trình sinh học được cách hiểu biết, chia sẻ và đồng cảm với nhau, tạo nên một đô thị đậm đà bản sắc quê hương.
Nét nổi bật là người dân chịu khó, chăm chỉ, có ý chí vươn lên. Một bộ phận buôn bán nhỏ, hàng vặt, nhưng nhờ tiết kiệm, “góp gió thành bão” mà tạo cho mình cuộc sống ổn định. Nhiều gia đình từ buôn bán nhỏ mà làm nên những cửa hàng, cửa hiệu khá giả, có uy tín.
Khác với cư dân những đô thị mới, đô thị lớn, cư dân ở đây có truyền thống đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau. Do thử thách trong quá trình chống chọi với thiên tai, giặc dã, người dân cố kết cộng đồng, “tối lửa tắt đèn có nhau”.
Vốn là miền quê hiếu học, học giỏi, việc học được người dân quan tâm. Các trường học trên địa bàn đều là những trường có chất lượng hàng đầu của huyện. Nhiều gia đình dù kinh tế còn khó khăn nhưng vẫn ưu tiên việc học cho con cháu. Nhiều gia đình khá giả nhờ sự đầu tư bền vững cho con em.
Tôn giáo, tín ngưỡng được tự do và tôn trọng theo đúng pháp luật. Phần lớn cư dân theo đạo thờ cúng Tổ tiên, ông bà; có cơ sở thờ tự Phật giáo (chùa Ngưu tử), có 26 hộ dân với 56 người theo đạo Thiên chúa. Bà con lương, giáo, giới phật tử tôn trọng lẫn nhau, chung sống lành mạnh với nhau trên địa bàn.
THAM KHẢO THÊM: