Huyện Kiến Xương nằm ở phía Nam của tỉnh Thái Bình, nằm cách thành phố Thái Bình khoảng 14km về phía Nam, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 124 km. Huyện Kiến Xương có lịch sử văn hóa lâu đời cùng nhiều làng nghề truyền thống. Cùng tham khảo bài viết: Bản đồ và các xã phường thuộc Kiến Xương (Thái Bình) dưới đây nhé.
Mục lục bài viết
1. Bản đồ huyện Kiến Xương (Thái Bình):
2. Các xã phường thuộc Kiến Xương (Thái Bình):
Hiện nay, huyện Kiến Xương có 33 đơn vị hành chính cấp xã, gồm thị trấn Kiến Xương (huyện lị) và 32 xã.
STT | Các xã, phường, thị trấn thuộc huyện Kiến Xương |
1 | Thị trấn Kiến Xương |
2 | Xã An Bình |
3 | Xã Bình Định |
4 | Xã Bình Minh |
5 | Xã Bình Nguyên |
6 | Xã Bình Thanh |
7 | Xã Đình Phùng |
8 | Xã Hòa Bình |
9 | Xã Hồng Thái |
10 | Xã Hồng Tiến |
11 | Xã Lê Lợi |
12 | Xã Minh Quang |
13 | Xã Minh Tân |
14 | Xã Nam Bình |
15 | Xã Nam Cao |
16 | Xã Quang Bình |
17 | Xã Quang Lịch |
18 | Xã Quang Minh |
19 | Xã Quang Trung |
20 | Xã Quốc Tuấn |
21 | Xã Tây Sơn |
22 | Xã Thanh Tân |
23 | Xã Thượng Hiền |
24 | Xã Trà Giang |
25 | Xã Vũ An |
26 | Xã Vũ Bình |
27 | Xã Vũ Công |
28 | Xã Vũ Hòa |
29 | Xã Vũ Lễ |
30 | Xã Vũ Ninh |
31 | Xã Vũ Quý |
32 | Xã Vũ Thắng |
33 | Xã Vũ Trung |
3. Giới thiệu huyện Kiến Xương (Thái Bình):
3.1. Đặc điểm tự nhiên:
- Vị trí địa lý:
Huyện Kiến Xương nằm ở phía Nam của tỉnh Thái Bình, cách thành phố Thái Bình khoảng 14km về phía Nam, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 124 km.
+ Phía Đông giáp huyện Tiền Hải;
+ Phía Tây giáp thành phố Thái Bình và huyện Vũ Thư;
+ Phía Nam giáp huyện Xuân Trường và huyện Giao Thủy thuộc tỉnh Nam Định;
+ Phía Bắc giáp huyện Đông Hưng và huyện Thái Thụy.
- Diện tích:
Huyện Kiến Xương có tổng diện tích tự nhiên 19.920,73 ha (199,21 km²).
- Dân số:
Huyện Kiến Xương có dân số 223.179 người, trong đó thành thị 12.000 người, nông thôn 211.179 người. Mật độ dân số khoảng 1.121 người/km².
3.2. Lịch sử phát triển:
Năm 1009 Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Lý Thái tổ. Năm 1010 nhà Lý thiên đô về Thăng Long và cũng là năm đổi 10 đạo 24 lộ. Lộ Kiến Xương được lập trong đời vua Lý Thái Tổ, từ ngày ra đời đến nay trên 1000 năm tuổi. Theo tự dạng chữ Hán – Kiến Xương là Kiến Lập, là dựng xây cho một vùng quê giàu đẹp, hưng thịnh.
Lộ Kiến Xương sau đổi là Phủ Kiến Xương chia thành 4 huyện. Huyện Bổng tên chữ là Vũ Tiên, huyện Kiến Xương ở chính giữa; phía nam sông Vàng (Hoàng giang) – sông Lam ra đến biển đều là đất Châu Đặng, đổi tên là huyện Chân Lợi.
Buổi đầu ra đời, Kiến Xương là một lộ có vị trí như các lộ Thiên Trường, Long Hưng, nhưng khi nhà trần tổ chức lại 24 lộ xuống còn 12 lộ thì lộ Kiến Xương lại tách ra khởi lộ Thiên Trường, thành một lộ riêng. Nhà Hồ đổi gọi lộ Kiến Xương thành phủ Kiến Ninh (1398-1407), thời thuộc Minh (1407-1427) đổi lại thành phủ Kiến Xương. Đầu thời Lê sơ (1428-1527) nhà Lê lấy lại các tên đã được đặt từ thời Lý – Trần bị giặc Minh đổi tên, gọi lại như cũ là phủ Kiến Xương.
Phủ Kiến Xương tồn tại suốt triều Lê – Mạc, Lê trung hưng, Nguyễn cho đến sau cách mạng Tháng Tám năm 1945 phủ mới đổi thành huyện. Thời Lý, Trần, Hồ phủ Kiến Xương kiêm nghiệm 4 huyện: Kiến Xương, Chân Lợi, huyện Bố (Vũ Tiên), huyện Bổng Điền (Thư Trì)
Thời giặc Minh xâm lược và thống trị nước ta, nhà Minh đã sáp nhập huyện Bổng Điền (Thư Trì) vào huyện Kiến Xương, đến năm 1419 sáp nhập huyện Vũ Tiên vào huyện Kiến Xương (riêng huyện Chân Lợi không thay đổi).
Thời Lê, Lê Lợi cho tổ chức lại các phủ huyện gọi lại tên đặt như thời Lý, Trần cho tách huyện Kiến Xương từ 03 huyện thời thuộc Minh làm hai huyện Bổng Điềm, Vũ Tiên. Tuy không còn huyện Kiến Xương, nhưng phủ vẫn mang tên Kiến Xương, phủ lúc đầu kiêm lý 3 huyện Chân Định (Chân Lợi) Vũ Tiên, Thư Trì (từ năm 1828 kiêm lý thêm huyện Tiền Hải).
Thời Mạc (1527-1592) cắt toàn bộ các phủ Thái Bình, Kiến Xương lệ về Hải Dương (và Chân Định cũng thuộc Hải Dương) thế kỷ XVIII. Chân Định chia thành 8 tổng, thường lấy tên xã lớn nhất đặt tên cho tổng.
Ngày 21-3-1890, tỉnh Thái Bình được thành lập gồm có phủ Kiến Xương, phủ Thái Bình, phân phủ Thái Bình và huyện Thần Khê của Tiên Hưng. Sau ngày thành lập tỉnh, chính quyền thực dân điều chỉnh lại địa giới các phủ và huyện. Tỉnh Thái Bình có 1 thị xã, 3 phủ, 9 huyện, huyện Thanh Quan đổi gọi phủ Thái Ninh, huyện Thần Khê đổi gọi phủ Tiên Hưng. Huyện Trực Định đổi gọi là phủ Kiến Xương. Năm Thành Thái thứ 8 (năm 1896) Kiến Xương gồm có 8 tổng, 91 xã.
Thời Lê Trung Hưng, huyện Kiến Xương được gọi là huyện Chân Định thuộc phủ Kiến Xương trấn Sơn Nam. Đến thời nhà Nguyễn, năm 1832 triều Minh Mạng là huyện Chân Định phủ Kiến Xương tỉnh Nam Định (cũ), đến năm 1889 và 1890, triều Thành Thái, đổi là huyện Trực Định phủ Kiến Xương tỉnh Thái Bình. Từ Cách mạng tháng Tám đổi thành huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Sau năm 1954, huyện Kiến Xương có 32 xã: An Bình, An Bồi, An Ninh, Bắc Hải, Bình Định, Bình Minh, Bình Nguyên, Bình Thanh, Đình Phùng, Hòa Bình, Hồng Thái, Hồng Tiến, Lê Lợi, Minh Hưng, Minh Tân, Nam Bình, Nam Cao, Phương Công, Quang Bình, Quang Hưng, Quang Lịch, Quang Minh, Quang Trung, Quốc Tuấn, Quyết Tiến, Tán Thuật, Thanh Tân, Thượng Hiền, Trà Giang, Vân Trường, Vinh Quang, Vũ Lăng.
Ngày 12 tháng 7 năm 1958, giải thể 2 xã Quang Minh và Vinh Quang.
Ngày 17 tháng 6 năm 1969, chuyển 13 xã: Vũ Đông, Vũ Tây, Vũ Sơn, Vũ Lạc, Vũ Quý, Vũ Trung, Vũ Thắng, Vũ Công, Vũ Lễ, Vũ An, Vũ Ninh, Vũ Hòa, Vũ Bình thuộc huyện Vũ Tiên (cũ) về huyện Kiến Xương quản lý.
Ngày 10 tháng 9 năm 1969, chuyển 5 xã: Bắc Hải, Phương Công, Vân Trường, Vũ Lăng, An Ninh về huyện Tiền Hải quản lý.
Năm 1974, tái lập xã Quang Minh.
Ngày 8 tháng 6 năm 1988, thành lập thị trấn Kiến Xương trên cơ sở tách xóm Quang Trung và xóm Tân Tiến của xã Tán Thuật.
Ngày 12 tháng 4 năm 2002, hợp nhất thị trấn Kiến Xương và xã Tán Thuật để thành lập thị trấn Thanh Nê.
Ngày 13 tháng 12 năm 2007, chuyển 2 xã Vũ Lạc và Vũ Đông về thành phố Thái Bình quản lý.
Ngày 11 tháng 2 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 892/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Thái Bình, theo đó, Huyện Kiến Xương có 1 thị trấn và 32 xã như hiện nay.
3.3. Văn hóa:
- Làng chạm bạc Đồng Xâm
Đây là một làng nghề chạm khắc kim loại quý. Theo người làng kể lại cách đây hơn 300 năm có nghệ nhân chạm bạc là Nguyễn Kim Lâu theo truyền dọc sông Trà Lý về lập nghiệp ở đây. Ông đã truyền dạy nghề chạm kim loại quý cho cư dân trong làng. Sau khi ông mất, để tưởng nhớ công đức của ông, dân làng đã lập đền thờ tại Đồng Xâm. Trải bao biến cố nhưng ngày nay nghề vẫn được duy trì và phát triển.
- Lễ hội đền Đồng Xâm
Lễ hội được tổ chức để tưởng nhớ Triệu Vũ Đế – hoàng đế đầu tiên của nước Việt, một người con rể của làng. Lễ hội được tổ chức vào ngày mùng 1 đến mùng 3 tháng Tư âm lịch. Lễ hội có nhiều hoạt động, trong đó có hội chợ trưng bày những sản phẩm kim loại, bạc chạm rất tinh tế. Lễ hội còn tổ chức bơi trải, diễn chèo, hát ca trù,… Bên cạnh đó, tại làng Đồng Xâm còn có đền thờ Nguyễn Kim Lâu, tổ sư nghề chạm bạc.
- Lễ hội Đền làng Lại Trì
Làng Lại Trì hiện nay gồm xã Vũ Tây và xã Vũ Sơn (nay là xã Tây Sơn), đền làng thờ Khổng Minh Không (quốc sư triều Lý). Lễ hội diễn ra từ ngày 10 đến 13 tháng 9 âm lịch. Lễ hội có rước kiệu từ đền Thánh ra Am và ngược lại, dâng hương, tụng kinh, tục đua thuyền nhớ về sự tích Khổng Minh Không.
- Di tích đình Bình Trật
Di tích này cùng giếng đình gắn liền với nhiều sự kiện theo chiều dài lịch sử giữ nước của dân tộc đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia 1984.
THAM KHẢO THÊM: