Huyện Vân Hồ được thành lập năm 2013 theo Nghị quyết số 72/NQ-CP ngày 10/6/2013 của Chính phủ trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Mộc Châu. Huyện nằm ở vùng Tây Bắc về hướng đông nam của tỉnh Sơn La, có diện tích tự nhiên 97.984 ha. Bài viết dưới đây cung cấp Bản đồ và các xã phường thuộc huyện Vân Hồ (Sơn La).
Mục lục bài viết
1. Bản đồ hành chính huyện Vân Hồ (Sơn La):
2. Huyện Vân Hồ (Sơn La) có bao nhiêu xã phường?
Huyện Vân Hồ có 14 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc
STT | Danh sách các xã phường thuộc huyện Vân Hồ (Sơn La) |
1 | Xã Suối Bàng |
2 | Xã Song Khủa |
3 | Xã Liên Hoà |
4 | Xã Tô Múa |
5 | Xã Mường Tè |
6 | Xã Chiềng Khoa |
7 | Xã Mường Men |
8 | Xã Quang Minh |
9 | Xã Vân Hồ |
10 | Xã Lóng Luông |
11 | Xã Chiềng Yên |
12 | Xã Chiềng Xuân |
13 | Xã Xuân Nha |
14 | Xã Tân Xuân |
3. Vị trí địa lý, lịch sử hình thành, điều kiện tự nhiên huyện Vân Hồ:
- Vị trí địa lý: Huyện Vân Hồ nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Sơn La, có vị trí địa lý:
+ Phía Đông giáp huyện Đà Bắc và huyện Mai Châu thuộc tỉnh Hòa Bình;
+ Phía Tây giáp huyện Mộc Châu và huyện Sop Bao, tỉnh Hủa Phăn, nước CHDCND Lào;
+ Phía Nam giáp huyện Mường Lát và huyện Quan Hóa thuộc tỉnh Thanh Hóa;
+ Phía Bắc giáp huyện Phù Yên với ranh giới là sông Đà.
Huyện có diện tích 982,89 km², dân số năm 2020 là 63.191 người, mật độ dân số đạt 64 người/km².
- Lịch sử hình thành: Huyện Vân Hồ được thành lập vào ngày 10 tháng 6 năm 2013, theo Nghị quyết số 72/NQ-CP của Chính phủ trên cơ sở điều chỉnh 97.984 ha diện tích tự nhiên và 55.797 nhân khẩu, gồm 14 xã: Chiềng Khoa, Chiềng Xuân, Chiềng Yên, Liên Hòa, Lóng Luông, Mường Men, Mường Tè, Quang Minh, Song Khủa, Suối Bàng, Tân Xuân, Tô Múa, Vân Hồ và Xuân Nha thuộc huyện Mộc Châu. Trung tâm hành chính huyện Vân Hồ đặt tại Tiểu khu Sao Đỏ 2, xã Vân Hồ.
- Khí hậu: Huyện Vân Hồ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa đông lạnh khô đối với một số xã vùng dọc sông Đà và ẩm ướt đối với các xã dọc quốc lộ 6 và các bản vùng cao, mùa hè mát ẩm và mưa nhiều. Nhiệt độ không khí trung bình/năm khoảng 18,5 độ C, lượng mưa trung bình/năm khoảng 1.560 mm. Độ ẩm không khí trung bình 85%. Huyện Vân Hồ được phân thành hai vùng khí hậu:
+ Vùng khí hậu lạnh và mát bao gồm các xã vùng dọc QL6 và các xã vùng cao biên giới như xã Vân Hồ, Lóng Luông, Tô Múa và một số bản vùng cao,… Khí hậu phù hợp để phát triển cây trồng và vật nuôi vùng ôn đới như cây nông nghiệp, cây công nghiệp, cây ăn quả, rau vùng ôn đới; chăn nuôi đại gia súc, đặc biệt là bò sữa, bò thịt và phát triển du lịch sinh thái;
+ Vùng khí hậu nóng ẩm bao gồm các xã vùng dọc sông Đà, thuận lợi cho phát triển cây lương thực lúa, ngô, cây công nghiệp hàng năm (đậu tương, bông), phát triển chăn nuôi đại gia súc lấy thịt, nuôi cá lồng trên sông.
+ Tuy nhiên trong những năm gần đây thời tiết khí hậu có khắc nghiệt hơn như khô hanh, sương muối, lốc và mưa đá xuất hiện nhiều lần trong năm đã gây thiệt hại lớn về sản xuất và ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân.
- Thuỷ văn: Huyện Vân Hồ nằm trên cao nguyên đá vôi, nguồn nước mặt rất hạn chế, trên địa bàn huyện có sông Đà thuộc vùng hồ thủy điện Hòa Bình chảy qua 4 xã có chiều dài 35 km. Các dòng suối chính bao gồm: Suối Khủa, suối Đá Mài, suối Tái, suối Giang, suối Mực, suối Sơ Vin, suối Đâu,… có độ dốc lớn, nên có nhiều thuận lợi phát triển thuỷ điện vừa và nhỏ, kết hợp với thủy lợi tại các xã Tân Xuân, Chiềng Khoa, Tô Múa và Chiềng Yên.
4. Tài nguyên thiên nhiên tại huyện Vân Hồ:
4.1. Tài nguyên đất:
Trên địa bàn huyện Vân Hồ có các nhóm đất chính sau:
- Nhóm đất Feralit đỏ vàng trên núi đá (F4): 25.965 ha, chiếm 26,5% tổng diện tích đất tự nhiên, chủ yếu phân bố các xã vùng dọc sông Đà;
- Nhóm đất nâu trên đá vôi (FQV): 548 ha, chiếm 0,56% tổng diện tích đất tự nhiên, phân bố chủ yếu tại xã Vân Hồ và Xuân Nha;
- Nhóm đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa: 421 ha, chiếm 0,43% tổng diện tích đất tự nhiên, phân bố chủ yếu tại xã Chiềng Khoa, xã Xuân Nha và xã Vân Hồ;
- Nhóm đất mùn đỏ vàng trên núi (FHO): 47.620 ha, chiếm 48,6% tổng diện tích đất tự nhiên, phân bố chủ yếu tại các xã vùng dọc sông Đà và vùng dọc QL6;
- Đất khác 23.430 ha chiếm, 23,91% tổng diện tích đất tự nhiên.
Hầu hết các loại đất ở Vân Hồ có độ dày tầng đất khá, thành phần cơ giới từ trung bình đến nặng, tỷ lệ mùn và các chất dinh dưỡng từ trung bình đến khá, ít chua, nghèo bazơ trao đổi và các chất dễ tiêu.
Đặc biệt trên địa bàn xã Vân Hồ thuộc vùng cao nguyên Mộc Châu có một số loại đất tốt như: Đất Feralit mùn đỏ vàng trên đá sét, đất Feralit mùn vàng đỏ trên đá vôi,… rất phù hợp cho việc trồng các loại cây đặc sản như: Chè, cây ăn quả các loại ( đào, mận, lê,…), rau quả ôn đới,… thuận lợi để hình thành vùng sản xuất hàng hóa quy mô lớn, tập trung với cơ cấu đa dạng.
Hiện trạng sử dụng đất huyện Vân Hồ có tổng diện tích đất tự nhiên 98.288,90 ha gồm 3 nhóm đất chính:
- Đất nông nghiệp: 86.781,22 ha, chiếm 88,2% tổng diện tích tự nhiên;
- Đất phi nông nghiệp: 4.344,15 ha, chiếm 4,6%;
- Đất chưa sử dụng 7.163,52 ha, chiếm 7,2% diện tích tự nhiên.
Qua số liệu cho thấy diện tích đất chưa sử dụng còn lớn. Song diện tích có khả năng đưa vào sản xuất nông nghiệp đều rất khó khăn như phân bố ở những địa bàn không thuận lợi đường giao thông, thiếu nguồn nước hoặc nằm ở độ dốc trên 25 độ, chỉ thích hợp với các cây lâu năm, hoặc chỉ có thể khai thác theo phương thức nông – lâm kết hợp. Tuy nhiên đây vẫn là điều kiện để huyện Vân Hồ có thể khai thác, mở rộng diện tích đất nông – lâm nghiệp trong thời gian tới, tăng hiệu quả sử dụng đất cả về mặt kinh tế – xã hội và môi trường.
4.2. Tài nguyên rừng, thảm thực vật và động vật:
Tài nguyên rừng của huyện Vân Hồ khá phong phú, có nhiều nguồn gen động – thực vật quý hiếm có giá trị cao về nghiên cứu khoa học, bảo tồn nguồn gen và phục vụ du lịch sinh thái trong tương lai, tập trung trong vùng rừng đặc dụng Xuân Nha với khoảng 456 loài thực vật thuộc 4 ngành với các loại gỗ quý phân bố trên toàn địa bàn như: Bách xanh, thông, chò,… và có 48 loài động vật hoang dã thuộc 19 họ của 8 bộ với các loài động vật như: Gấu, hoẵng, lợn rừng,…
Diện tích đất lâm nghiệp có rừng của huyện Vân Hồ hiện còn 51.528 ha, trong đó có 13.648 ha đất rừng đặc dụng, tập trung chủ yếu ở xã Xuân Nha, Chiềng Xuân, Tân Xuân. Rừng phòng hộ 24.643,4 ha, phân bố các xã dọc sông Đà và QL 6. Rừng sản xuất 13.235,7 ha, trong đó có 3.311 ha rừng trồng sản xuất. Độ che phủ của rừng đạt trên 52,1%, song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phòng hộ đầu nguồn xung yếu cho lòng hồ Thuỷ điện Hoà Bình.
4.3. Tài nguyên nước:
- Nước mặt: Đây là nguồn nước quan trọng cung cấp cho sản xuất và sinh hoạt của dân cư, nhất là trong mùa khô. Nước mặt chủ yếu là nguồn nước mưa được lưu giữ trong các ao, hồ chứa, kênh mương, mặt ruộng và hệ thống sông suối. Tuy nhiên nguồn nước mặt phân bố không đều cả về thời gian và không gian, nguồn nước dồi dào về mùa mưa và cạn kiệt về mùa khô, phần lớn mặt nước các sông, suối đều thấp so với mặt bằng canh tác và khu dân cư nên hạn chế khả năng khai thác, sử dụng vào sản xuất và đời sống. Chất lượng nguồn nước tương đối trong sạch. Tuy nhiên do ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường từ các khu dân cư, các điểm chế biến nông sản,… nên đa số các con suối trở thành nơi dẫn tụ các chất thải, chất lượng nước ở các khu vực cuối nguồn bị giảm đáng kể, ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Hiện nay việc phân tích chất lượng nguồn nước mặt để phục vụ sinh hoạt của nhân dân theo các quy chuẩn quốc gia đều chưa thực hiện được. (QCVN 08: 2008/BTNMT quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt ban hành kèm theo Quyết định số 16/2008/QĐ-BTNMT ngày 31/12/2008 của Bộ Tài nguyên và Môi trường Ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về Môi trường; và QCVN 01: 2009/BYT kèm theo Thông tư số 04/2009/TT-BYT ngày 17/6/2009 của Bộ trưởng bộ Y tế về việc ban hành “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước ăn uống”).
- Nước ngầm: Nguồn nước ngầm của huyện hiện tại chưa có điều kiện thăm dò, khảo sát đầy đủ. Song, trong thực tế sự tích tụ của hồ thuỷ điện Hoà Bình làm cho các khe nứt, hệ thống hang động dưới 115 m trên địa bàn huyện Vân Hồ hoạt động trở lại đã đẩy mực nước ngầm lên cao hơn. Ở các khu vực còn lại, nước ngầm đã được nhân dân khai thác tương đối hiệu quả để phục vụ sinh hoạt. Một số năm gần đây do độ che phủ của thảm thực vật giảm nên nguồn nước ngầm cũng bị giảm đáng kể, một số khu vực các giếng đào đã bị cạn nước về mùa khô. Vì vậy, để đảm bảo có đủ nước phục vụ đời sống của nhân dân trong vùng cần quan tâm sử dụng các biện pháp dự trữ nước mặt, nước trời trong mùa khô như: Đắp đập, xây bể chứa nước,… kết hợp với các biện pháp khoanh nuôi bảo vệ và trồng rừng ở các khu vực đầu nguồn.
4.4. Tài nguyên khoáng sản:
Huyện Vân Hồ có một số loại khoáng sản chính:
- Than: Ở xã Suối Bàng với các vỉa than kéo dài khoảng 5 km, trữ lượng khoảng 2,4 triệu tấn thuộc loại than mỡ phục vụ cho việc luyện than cốc;
- Đất hiếm: Có ở bản Hua Pù – xã Mường Tè;
- Bột Talc: Có ở Tà Phù xã Liên Hòa với hàm lượng các chất: MgO: 24,31%, Cao: 0,39%, SiO2: 63,2%; với trữ lượng khoảng 2,3 triệu tấn, có thể khai thác để phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Ngoài ra Vân Hồ còn có nguồn đá vôi, cát sạn phân bổ tập trung ở các xã Vân Hồ, Lóng Luông, Xuân Nha, Tô Múa, Liên Hòa,… và đất sét với trữ lượng tương đối lớn cho phép phát triển sản xuất gạch, ngói, vật liệu xây dựng tại các xã Vân Hồ, Lóng Luông, Chiềng Khoa,…
THAM KHẢO THÊM: