Huyện Buôn Đôn xác định là vùng kinh tế trọng điểm phía Tây của tỉnh Buôn Đôn có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch, năng lượng, công nghiệp chế biến nông sản cùng các dịch vụ nông nghiệp khác đã góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế toàn diện cho cả vùng. Bài viết dưới đây cung cấp thông tin về bản đồ, các xã phường thuộc huyện Buôn Đôn (Đắk Lắk)
Mục lục bài viết
1. Bản đồ, các xã phường thuộc huyện Buôn Đôn (Đắk Lắk):
2. Các xã phường thuộc huyện Buôn Đôn (Đắk Lắk):
STT | Các xã phường thuộc huyện Buôn Đôn (Đắk Lắk) |
1 | Xã Krông Na |
2 | Xã Ea Huar |
3 | Xã Ea Wer |
4 | Xã Tân Hòa |
5 | Xã Cuôr Knia |
6 | Xã Ea Bar |
7 | Xã Ea Nuôl |
3. Đặc điểm tự nhiên, lịch sử hình thành huyện Buôn Đôn (Đắk Lắk):
Về vị trí địa lý:
Huyện Buôn Đôn nằm cách thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 30 km về phía Tây và tọa lạc trong vùng có tọa độ địa lý từ 12°40’08” đến 13°05’22” vĩ độ Bắc và từ 107°28’56” đến 108°01’41” kinh độ Đông. Vị trí địa lý của huyện được xác định như sau:
- Phía Bắc giáp huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk;
- Phía Đông giáp huyện Cư M’gar và thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk;
- Phía Tây giáp Vương quốc Campuchia;
- Phía Nam giáp thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk và huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông.
Với lợi thế có tuyến đường tỉnh lộ 17 đi qua trung tâm huyện và hầu hết các xã và có cùng đường biên giới dài khoảng 45 km tiếp giáp với Vương quốc Campuchia. Buôn Đôn đóng vai trò quan trọng về địa lý, kinh tế và quốc phòng trong tỉnh Đắk Lắk cũng như khu vực Tây Nguyên.
Được xác định là vùng kinh tế trọng điểm phía Tây của tỉnh Buôn Đôn có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch, năng lượng, công nghiệp chế biến nông sản cùng các dịch vụ nông nghiệp khác đã góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế toàn diện cho cả vùng.
Về địa hình, địa mạo:
Phần lớn diện tích huyện Buôn Đôn nằm trong vùng bán bình nguyên Ea Súp với địa hình được chia thành ba dạng chủ yếu như sau:
-
Địa hình đồi núi thấp trung bình: Chiếm phần lớn diện tích phía Bắc của huyện, địa hình này có sườn dốc tạo thành các tiểu bình nguyên hẹp được hình thành từ các trầm tích Mezozoi. Độ cao trung bình trên 250 m cùng địa hình nghiêng theo hướng Tây – Tây Nam với diện tích khoảng 121.900 ha chiếm 86,4% tổng diện tích tự nhiên.
-
Địa hình cao nguyên núi lửa: Phổ biến ở khu vực phía Đông – Đông Nam, đặc trưng bởi sự phân cắt mạnh tạo nên các dãy đồi dạng bát úp. Độ dốc trung bình từ 8° đến 10°, độ cao dao động từ 200 m đến 250 m. Địa hình này có xu hướng thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam với diện tích khoảng 17.900 ha, chiếm 12,7% diện tích tự nhiên.
-
Địa hình dốc tụ: Bao gồm các bãi bồi và các bậc thềm sông suối thuộc lưu vực sông Sêrêpốk và các suối lớn. Độ cao tuyệt đối dưới 200 m, bề mặt khá bằng phẳng nhưng thường bị ngập úng vào mùa mưa. Loại địa hình này có diện tích khoảng 1.200 ha, chiếm 0,9% diện tích tự nhiên.
Những đặc điểm địa hình trên tạo nên sự đa dạng tự nhiên của huyện Buôn Đôn đồng thời ảnh hưởng lớn đến tiềm năng phát triển kinh tế và sử dụng đất của khu vực.
Về lịch sử hình thành các xã phường thuộc huyện Buôn Đôn (Đắk Lắk):
Huyện Buôn Đôn chính thức được thành lập vào ngày 7 tháng 10 năm 1995, trên cơ sở tách 6 xã gồm Cuôr Knia, Ea Bar, Ea Huar, Ea Nuôl, Ea Wer và Krông Na từ huyện Ea Súp. Khi mới thành lập, huyện Buôn Đôn chỉ bao gồm 6 xã này với trung tâm hành chính đặt tại xã Ea Wer.
Ngày 15 tháng 8 năm 2001, xã Tân Hòa được thành lập dựa trên việc tách 5.698 ha diện tích tự nhiên và 8.621 nhân khẩu từ xã Cuôr Knia đã đánh dấu bước phát triển mới trong cơ cấu hành chính của huyện.
Đến ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 22/2003/QH11 về việc chia tỉnh Đắk Lắk thành hai tỉnh là Đắk Lắk và Đắk Nông. Theo đó, huyện Buôn Đôn được sáp nhập vào tỉnh Đắk Lắk và duy trì 7 xã trực thuộc như hiện nay.
Trước đây, Bản Đôn từng được xem là trung tâm hành chính của tỉnh Đắk Lắk. Tuy nhiên, để phù hợp với định hướng phát triển kinh tế, xã hội và đảm bảo vị trí chiến lược về an ninh quốc phòng, người Pháp đã quyết định di dời cơ quan hành chính của tỉnh về Buôn Ma Thuột, nơi được đánh giá là có vị trí trung tâm của toàn khu vực Tây Nguyên.
Về Khí hậu:
Dựa trên số liệu từ Trung tâm Khí tượng Thủy văn Đắk Lắk, khu vực dự án thuộc vùng khí hậu cao nguyên nhiệt đới ẩm, chịu ảnh hưởng rõ nét của gió mùa Đông Bắc. Khí hậu tại đây chia thành hai mùa đặc trưng: mùa mưa và mùa khô, mỗi mùa mang những đặc điểm riêng biệt, ảnh hưởng lớn đến đời sống và sản xuất trong khu vực.
- Mùa mưa: Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến hết tháng 11 chiếm phần lớn tổng lượng mưa trong năm, dao động từ 75% đến 85%. Trong khoảng thời gian này, lượng mưa tập trung dày đặc, độ ẩm không khí thường xuyên ở mức cao, tạo điều kiện thuận lợi cho cây trồng và các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, mưa lớn kéo dài cũng gây nguy cơ ngập úng ở những vùng thấp, ảnh hưởng đến giao thông và sinh hoạt của người dân.
- Mùa khô: Mùa khô bắt đầu từ tháng 12 và kéo dài đến tháng 4 năm sau. Đặc trưng bởi thời tiết nắng nóng và lượng mưa hạn chế chỉ chiếm khoảng 10% – 20% lượng mưa cả năm. Độ ẩm không khí giảm thấp trong giai đoạn này thường dao động ở mức 73% – 75%, gây hiện tượng khô hạn ở nhiều khu vực. Thời tiết hanh khô vào mùa này đòi hỏi các biện pháp quản lý nước hiệu quả để phục vụ sản xuất và sinh hoạt
Các yếu tố liên quan đến khí hậu tại huyện Buôn Đôn (Đắk Lắk):
Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình năm đạt 25,6°C, tạo nên khí hậu ôn hòa, dễ chịu cho khu vực. Nhiệt độ trung bình cao nhất ghi nhận là 27,4°C trong khi nhiệt độ trung bình thấp nhất là 22,3°C. Biên độ nhiệt không quá lớn giữa các mùa, phù hợp cho việc trồng các loại cây nông nghiệp và phát triển du lịch sinh thái.
Lượng mưa: Lượng mưa trung bình năm đạt khoảng 1.422 mm với mức cao nhất trong năm lên đến 1.633 mm và thấp nhất là 930 mm. Tháng 9 là thời điểm có lượng mưa lớn nhất đạt 410,4 mm, trong khi tháng 2 thường khô hạn hoàn toàn. Sự chênh lệch lượng mưa giữa các tháng trong năm ảnh hưởng đến chu kỳ trồng trọt và đòi hỏi kế hoạch điều tiết nước hiệu quả.
Độ ẩm không khí: Độ ẩm trung bình hàng năm đạt 79,8% thể hiện tính chất khí hậu nhiệt đới ẩm của vùng. Các tháng mùa mưa như tháng 6, 7, 8 và 9 có độ ẩm cao nhất thường dao động từ 82,9% đến 84,6%. Ngược lại, các tháng mùa khô như tháng 2, 3, và 4 ghi nhận độ ẩm thấp hơn thường trong khoảng 73,5% – 74,7%. Sự thay đổi độ ẩm này tác động mạnh đến đời sống sinh hoạt và các hoạt động sản xuất, đặc biệt là nông nghiệp.
Gió: Khu vực dự án nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng của hai hướng gió chính. Gió Đông và Đông Bắc thổi từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau với tốc độ trung bình khoảng 2,6 m/s. Gió mùa Đông Bắc thường mang lại không khí mát mẻ, dễ chịu vào mùa khô, song đôi khi cũng gây khô hanh tại một số khu vực. Gió Tây Nam xuất hiện từ tháng 5 đến tháng 9 với tốc độ trung bình từ 1,4 m/s đến 1,8 m/s. Loại gió này thường đi kèm với những cơn mưa lớn, góp phần làm tăng độ ẩm và hỗ trợ hoạt động sản xuất nông nghiệp trong mùa mưa.
Với đặc điểm khí hậu đa dạng, khu vực này phù hợp cho phát triển các mô hình nông nghiệp bền vững đặc biệt là các cây trồng chịu hạn và các loại cây trồng mùa mưa. Đồng thời, thời tiết phân hóa rõ rệt giữa hai mùa cũng là cơ sở để triển khai các hoạt động du lịch sinh thái, trải nghiệm nông nghiệp và văn hóa địa phương. Tuy nhiên, việc đối mặt với khô hạn mùa khô và ngập úng mùa mưa đòi hỏi các giải pháp kỹ thuật và quy hoạch phù hợp để giảm thiểu rủi ro và tối ưu hóa lợi ích kinh tế, xã hội.
THAM KHẢO THÊM: