Trong hoạt động quản lý của nhà nước, thanh tra là nội dung không thể thiếu có vai trò quan trọng trong việc kiểm định, đánh giá hiệu quả của quản lý nhà nước. Vậy bản chất của thanh tra lại là gì? Đối tượng của thanh tra lại?
Mục lục bài viết
1. Thanh tra lại:
1.1. Thanh tra lại là gì?
Hoạt động thanh tra lại được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành khi phát hiện vụ việc thanh tra trước đó mà đã có kết luận thanh tra có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Dấu hiệu của vi phạm pháp luật của hoạt động thanh tra trước đó được xác định trên các cơ sở sau đây:
– Tính trái pháp luật của hành vi được thực hiện như thành viên đoàn thanh tra đã vi phạm pháp luật thanh tra.
– Tính có lỗi của người thực hiện hành vi vi phạm, cố ý thực hiện hành vi vi phạm có bàn bạc để làm sai lệch hồ sơ, bỏ qua sai phạm.
– Hành vi thanh tra trước đó cấu thành đầy đủ các yếu tố của vi phạm pháp luật.
Theo các quy định trong các văn bản pháp luật, thanh tra lại được hiểu là việc xem xét, đánh giá, xử lý kết luận thanh tra khi các cơ quan Nhà nước phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong quá trình thanh tra, ra kết luận thanh tra.
Như vậy, ta có thể nhận thấy, thanh tra lại không chỉ được hiểu đơn giản là việc xem xét lại kết luận thanh tra mà nó còn là quá trình cơ quan thanh tra cấp trên trực tiếp xem xét, đánh giá, xử lý việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân cấp dưới mà trước đó việc xem xét, đánh giá, xử lý trước đó phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật làm thay đổi sai lệch và ảnh hưởng đến bản chất của vụ việc.
1.2 Các dấu hiệu đặc trưng của thanh tra lại:
Trên cơ sở bản chất của thanh tra, thanh tra lại vừa mang đặc điểm đặc trưng riêng có của nó, bao gồm hai đặc trưng cơ bản sau đây:
– Đặc trưng đầu tiên của hoạt động thanh tra lại là thanh tra lại mang các đặc điểm chung của thanh tra, bao gồm:
+ Thanh tra lại là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước.
+ Thanh tra lại phải bảo đảm tính khách quan.
+ Ngoài ra còn phải mang tính độc lập tương đối và thanh tra gắn liền với hoạt động quản lý hành chính Nhà nước, là công cụ của quản lý Nhà nước, vừa là một giai đoạn nằm trong chu trình quản lý hành chính Nhà nước.
– Thanh tra lại còn mang nét đặc trưng thứ hai, đó là thanh tra lại có các dấu hiệu đặc trưng riêng của mình, bao gồm:
+ Thanh tra lại là phương thức quan trọng trong quản lý Nhà nước về công tác thanh tra. Qua thanh tra lại giúp cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phát hiện, xem xét, đánh giá và xử lý, kiến nghị xử lý những vi phạm pháp luật trong hoạt động thanh tra nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động công vụ – thanh tra.
+ Thanh tra lại là phương thức hữu hiệu trong việc kiểm soát quyền lực của cơ quan thanh tra, bảo đảm tính hợp pháp, ngăn ngừa việc lộng quyền, lạm quyền hoặc không thực hiện không đúng quyền lực của thanh tra viên cũng như đối với hoạt động của đoàn thanh tra dựa trên các căn cứ của thanh tra lại.
+ Thanh tra lại có mối quan hệ mật thiết với kiểm tra, thanh tra trách nhiệm, giám sát và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động thanh tra.
2. Quy định của pháp luật về thanh tra lại:
2.1. Căn cứ thanh tra lại:
Theo Điểm b Khoản 4, Điều 24 của
“Quyết định thanh tra lại hoặc đề nghị thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp quyết định thanh tra lại theo quy định của pháp luật về thanh tra nếu phát hiện kết luận thanh tra, văn bản chỉ đạo, yêu cầu, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra có dấu hiệu vi phạm pháp luật;”
Như vậy, bản chất của thanh tra lại là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý kết luận thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong quá trình thanh tra, ra kết luận thanh tra. Còn đối tượng của thanh tra lại là kết luận của thanh tra trước có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
Trước hết, để thanh tra lại một vụ việc, cần phải dựa trên cơ sở các căn cứ của thanh tra lại. Theo quy định của pháp luật thanh tra, việc thanh tra lại được thực hiện khi có một trong các căn cứ sau đây:
– Thực hiện thanh tra lại khi có vi phạm nghiêm trọng về trình tự, thủ tục trong tiến hành thanh tra.
– Thực hiện thanh tra lại khi có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật khi kết luận thanh tra.
– Thực hiện thanh tra lại khi nội dung kết luận thanh tra không phù hợp với những chứng cứ thu thập được trong quá trình tiến hành thanh tra.
– Thực hiện thanh tra lại khi người ra quyết định thanh tra, trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra, thanh tra viên, công chức được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ việc hoặc cố ý kết luận trái pháp luật.
– Thực hiện thanh tra lại khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng của đối tượng thanh tra chưa được phát hiện đầy đủ qua thanh tra.
2.2. Thẩm quyền quyết định thanh tra lại:
Theo Luật Thanh tra quy định Thủ trưởng các cơ quan Thanh tra nhà nước, tùy từng trường hợp có trách nhiệm báo cáo người có thẩm quyền quyết định hoặc tự mình ra quyết định thanh tra lại.
Thẩm quyền thanh tra lại được quy định Luật Thanh tra 2022 với nội dung như sau:
+ Trong lĩnh vực thanh tra, Thanh tra Chính phủ giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra: Thanh tra lại vụ việc đã có kết luận của Thanh tra Bộ, cơ quan thanh tra của cơ quan thuộc Chính phủ hoặc Thanh tra tỉnh nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật;
+ Trong lĩnh vực thanh tra, Tổng Thanh tra Chính phủ: Quyết định thanh tra lại vụ việc đã có kết luận của Thanh tra Bộ, cơ quan thanh tra của cơ quan thuộc Chính phủ hoặc Thanh tra tỉnh nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật;
+ Trong lĩnh vực thanh tra, Thanh tra Bộ giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác thanh tra: Thanh tra lại vụ việc đã có kết luận của Thanh tra Tổng cục, Cục, của cơ quan khác thuộc Bộ được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành; vụ việc thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ đã có kết luận của Thanh tra sở nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật qua xem xét, xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh;
+ Trong lĩnh vực thanh tra, Chánh Thanh tra Bộ: Quyết định thanh tra lại vụ việc đã có kết luận của Thanh tra Tổng cục, Cục, của cơ quan khác thuộc Bộ được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành; vụ việc thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ đã có kết luận của Thanh tra sở nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật qua xem xét, xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh;
+ Trong lĩnh vực thanh tra, Thanh tra tỉnh giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra : Thanh tra lại vụ việc thanh tra hành chính đã có kết luận của Thanh tra sở, Thanh tra huyện nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật;
+ Trong lĩnh vực thanh tra, Chánh Thanh tra tỉnh : Quyết định thanh tra lại vụ việc đã có kết luận của Thanh tra sở, Thanh tra huyện nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
3. Quyết định thanh tra và nội dung thanh tra lại:
3.1. Nội dung thanh tra lại:
Quyết định thanh tra lại bao gồm các nội dung quy định cụ thể tại Điều 56 của Luật Thanh tra nhưng nội dung của quyết định thanh tra lại cần phải ghi rõ phạm vi, đối tượng, nội dung thanh tra lại.
Về phạm vi và nội dung thanh tra lại được xác định trên cơ sở căn cứ vào dấu hiệu vi phạm pháp luật trong quá trình thanh tra và ra kết luận thanh tra.
Nội dung và phạm vi cuộc thanh tra lại có thể là toàn bộ nội dung cuộc thanh tra trước đó, nếu rơi vào trường hợp vi phạm nghiêm trọng về trình tự, thủ tục tiến hành thanh tra hoặc hành vi của thành viên đoàn thanh tra cố ý làm sai lệch bản chất vụ việc.
Hoặc nội dung thanh tra có thể chỉ tập trung vào một số dấu hiệu vi phạm trong áp dụng pháp luật của cuộc thanh tra trước, thì phạm vi nội dung thanh tra lại chỉ tập trung vào quá trình phân tích, lập luận, củng cố và đánh giá chứng cứ.
3.2. Thời hạn thanh tra lại:
Chậm nhất là 5 ngày, kể từ ngày ký quyết định, người có thẩm quyền thanh tra lại phải gửi quyết định thanh tra lại cho người đã ký kết luận thanh tra, đối tượng thanh tra lại.
Quyết định thanh tra lại phải được công bố chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày ký và phải được đoàn thanh tra lập biên bản.
3.3. Về đối tượng thanh tra lại:
Các đối tượng thanh tra lại cũng chính là đối tượng của cuộc thanh tra đi bởi vì xét về bản chất của thanh tra lại chính là tìm lại bản chất của vụ việc thanh tra chưa được làm sáng tỏ thông qua hoạt động thanh tra lại.
Theo những phân tích ở trên, để đảm bảo hoạt động thanh tra lại chính xác và đúng thủ tục thì pháp luật thanh tra lại cần xác định rõ đối tượng của thanh tra lại là ai và ban hành các quy định cụ thể để tìm ra sự thật khách quan mà vụ việc thanh tra trước đó chưa được xem xét, đánh giá và xử lý sự việc đó một cách khách quan, đúng pháp luật và đảm bảo quy trình tiến hành thanh tra lại. Sự thay đổi trong hậu quả pháp lý của báo cáo kết quả thanh tra lại, kết luận thanh tra lại đang là một trong những vấn đề rất cơ bản còn chưa được cụ thể hóa và còn thiếu những văn bản pháp quy để quy định chi tiết bảo đảm tính khả thi trong thực trạng thực thi pháp luật về thanh tra lại hiện nay.