Dưới đây Luật Dương Gia xin giới thiệu bài viết với nội dung: Hướng dẫn cách viết bài thu hoạch Nghị quyết Trung ương 7 khóa 12 dành cho Hiệu trưởng? Mẫu bài thu hoạch Nghị quyết Trung ương 7 khóa 12 cho Hiệu trưởng?
Trong lễ phát biểu khai mạc hội nghị, cán bộ Trần Quốc Vượng nhấn mạnh: “Các nghị quyết vừa qua đã được Ban Chấp hành Trung ương thông qua là sự cụ thể hóa các nhiệm vụ trọng tâm mà Đại hội XII của Đảng đề ra, đề cập tới những vấn đề lớn, hệ trọng, vừa cấp bách, trước mắt, vừa cơ bản, lâu dài có ý nghĩa đặc biệt quan trọng tới sự phát triển bền vững của đất nước, tác động to lớn, trực tiếp tới tâm tư, cuộc sống của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân”. Các đồng chí cán bộ cần viết bài thu hoạch như một sự tổng kết kiến thức góc nhìn nhận dưới đây là mẫu bài thu hoạch bạn có thể tham khảo.
Mục lục bài viết
1. Mục đích của bài thu hoạch Nghị quyết Trung ương 7 khóa 12:
+ Bài thu hoạch là tổng hợp kiến thức của người viết về một vấn đề cụ thể đã được tiếp thu trước đó;
+ Là quan điểm góc nhìn sự tiếp nhận kiến thức chủ quan của người viết bài thu hoạch về vấn đề;
+ Giọng văn trong sáng bài viết logic mạch lạc thể hiện phong cách người viết con người tác giả;
+ Đưa ra các giải pháp chung và riêng cho bản thân và mọi người;
+ Liên hệ thực tiễn sâu sắc về bản thân người viết trong quá trình làm việc hoạt động ở cơ quan.
2. Mẫu bài thu hoạch Nghị quyết Trung ương 7 khóa 12 cho Hiệu trưởng:
BÀI THU HOẠCH
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII) của Đảng
Họ và tên: …
Chức vụ: …
Đơn vị công tác: …
Qua học tập các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII) đồng chí hãy nêu những nhận thức của bản thân về các vấn đề sau đây:
1. Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018 về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”:
Thành tựu:
Bác từng nói: “sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa,người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Đội ngũ cán bộ các cấp từng bước trưởng thành và phát triển về nhiều mặt cùng với chất lượng ngày càng được nâng lên, từng bước đáp ứng nhiệm vụ được giao của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Cán bộ cấp chiến lược có bản lĩnh chính trị, lâp trường tư tưởng kiên định theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý tưởng và mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có tư duy đổi mới linh hoạt, có khả năng hoạch định đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Hầu hết cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang được thử thách thông qua thực tiễn, trung thành với Đảng, sẵn sàng tham gia quân ngũ và đấu tranh vì Tổ quốc, vì nhân dân. Công tác cán bộ đã bám sát các quan điểm, nguyên tắc của Đảng, ngày càng đi vào nề nếp và đạt được những kết quả quan trọng. Công tác kiểm tra, giám sát, bảo vệ chính trị nội bộ được quan tâm thực hiện có hiệu quả hơn; kỷ cương, kỷ luật được tăng cường. trong thời gian qua, việc xử lý nghiêm minh đúng lúc một số tổ chức, cá nhân vi phạm đã góp phần cảnh tỉnh, cảnh báo, giáo dục và ngăn chặn tiêu cực, làm trong sạch một bước đội ngũ cán bộ, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Hạn chế:
Chủ tịch hồ chí Minh từng nói: “Nói đến cán bộ trước hết vì cán bộ là tiền vốn của đoàn thể. Có vốn mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách, công tác gì nếu cán bộ tốt thì thành công tức có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc tức lỗ vốn”. Tuy nhiên những yếu kém khiếm khuyết tiêu cực của một bộ phận không nhỏ cán bộ và những bất cập khó khăn trong công tác cán bộ cũng là một nguyên nhân chủ yếu làm cho đất nước chưa phát triển.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ đáp ứng số lượng nhưng chưa đủ về chất lượng. Thiếu những cán bộ lãnh đạo tốt, quản lý xuất sắc, nhà khoa học và chuyên gia hàng đầu trên nhiều lĩnh vực. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém. Một số quản lý, cán bộ lãnh đạo trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược còn thiếu gương mẫu và uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa đáp ứng được với nhiệm vụ, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm. Công tác cán bộ còn nhiều hạn chế, bất cập, việc thực hiện một số nội dung còn hình thức.Việc sắp xếp, bố trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử vẫn còn tình trạng đúng quy trình nhưng chưa đúng người, đúng việc. Chủ trương thu hút nhân tài chậm được cụ thể hóa bằng các cơ chế phù hợp; kết quả thu hút trí thức trẻ và người có trình độ cao chưa đạt yêu cầu. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn bị động, chưa theo kịp tình hình, tổ chức bộ máy thiếu ổn định.
Nguyên nhân tồn tại hạn chế:
Một số cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị và cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, về cán bộ và công tác cán bộ có nhận thức và ý thức trách nhiệm chưa thật sự toàn diện, đầy đủ, sâu sắc. Công tác cán bộ chưa thực hiện thường xuyên, nghiêm túc; chậm thể chế hóa, cụ thể hóa; ít kiểm tra đôn đốc và chưa có chế tài xử lý nghiêm. Công tác quản lý cán bộ có nơi, có lúc bị buông lỏng; Chưa thay thế kịp thời và chưa có cơ chế sàng lọc những người yếu kém, không đủ sức khỏe, uy tín thấp. Chưa có biện pháp hữu hiệu để kịp thời ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng chạy chức hoặc chạy quyền và những tiêu cực trong công tác cán bộ. Chưa phát huy đầy đủ vai trò giám sát của cơ quan dân cử; giám sát, phản biện xã hội của cơ quan có thẩm quyền.
Mục tiêu:
Nghị quyết có mục tiêu tổng quát, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đủ về số lượng, đáp ứng chất lượng và cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển Đất nước;
Về mục tiêu cụ thể, cần tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa Nghị quyết thành các quy định của Đảng và pháp luật và chính sách của Nhà nước về công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ; ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, “tự diễn biến,” “tự chuyển hóa” trong mỗi cán bộ và đảng viên; đẩy mạnh thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương; hoàn thành việc xây dựng vị trí việc làm và rà soát, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ các cấp gắn với kiện toàn tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Đến năm 2025, chuẩn hóa, hoàn thiện và đồng bộ các quy định, quy chế, quy trình về công tác cán bộ; cơ bản bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh không là người địa phương và hoàn thành ở cấp huyện.
Đến năm 2030, thực hiện việc xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp chuyên nghiệp, đáp ứng chất lượng cao, đủ về số lượng, cơ cấu hợp lý, bảo đảm sự chuyển giao thế hệ một cách vững vàng.
Nghị quyết đề ra các nhóm giải pháp và nhiệm vụ trọng yếu như sau:
+ nâng cao nhận thức, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ;
+ xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới;
+ Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ; kiểm soát chặt chẽ quyền lực, chống chạy quyền chạy chức; phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ tốt đạt chuẩn;
+ Hai trọng tâm 5 đột phá
2.
Thành tựu:
Nước ta đã trải qua 4 lần cải cách chính sách tiền lương vào các năm 1960, năm 1985, năm 1993 và năm 2003. Tiền lương trong các khu vực từng bước được cải thiện, nhất là ở những vùng, lĩnh vực đặc biệt khó khăn, góp phần nâng cao đời sống người lao động. Ngoài ra, chính sách tiền lương trong khu vực doanh nghiệp từng bước được hoàn thiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Hạn chế:
Chính sách tiền lương trong khu vực công còn phức tạp, thiết kế hệ thống bảng lương chưa phù hợp còn mang nặng tính bình quân, không bảo đảm được cuộc sống, chưa đáp ứng được mục đích chiêu mộ nhân tài. Hệ số mức lương cơ sở không thể hiện rõ giá trị thực của tiền lương.
Chưa phát huy được quyền, trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong việc đánh giá và trả lương, thưởng. Những điều này cần gắn với năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả công tác của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động nhưng vần chưa thực hiện được.
Nguyên nhân hạn chế:
Những hạn chế, nguyên nhân khách quan từ nội lực nền kinh tế còn yếu, chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp…nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Việc thể chế hoá các chủ trương của Đảng về chính sách tiền lương còn chậm. Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị còn cồng kềnh; số đơn vị sự nghiệp công lập tăng nhanh, số người hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước còn quá lớn.Việc thanh tra, kiểm tra, giám sát tiền lương của người lao động trong ký kết
Mục tiêu:
Thiết kế lại Chính sách tiền lương trong khu vực công, hệ thống bảng lương phù hợp với vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo.
Quy định mức lương cơ sở nhân với hệ số thể hiện rõ giá trị thực của tiền lương. Làm sao cho tiền lương tạo động lực cho khu vực công và khu vực tư.
3. Nghị quyết số 28/NQ/TW về “Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội”:
Thành tựu:
Hệ thống chính sách và pháp luật bảo hiểm xã hội, bao gồm các chế độ hưu trí, tử tuất,… đã từng bước được hoàn thiện, ngày càng đồng bộ, phù hợp với thực tế đất nước và thông lệ quốc tế. Quỹ bảo hiểm xã hội đã trở thành quỹ an sinh lớn nhất và bao phủ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật, số người tham gia bảo hiểm xã hội ngày càng được mở rộng.
Hạn chế:
Hệ thống chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội chưa theo kịp tình hình phát triển kinh tế – xã hội, chưa thích ứng với quá trình già hóa dân số và sự xuất hiện các quan hệ lao động mới. Việc cần mở rộng và thúc đẩy nhiều đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội còn dưới mức tiềm năng; độ bao phủ bảo hiểm xã hội tăng chậm; số người hưởng bảo hiểm xã hội một lần tăng nhanh. Tình trạng nợ đóng, trốn đóng, gian lận, trục lợi bảo hiểm xã hội chậm được khắc phục gây ra nguy cơ mất cân đối trong dài hạn.
Chính sách bảo hiểm thất nghiệp chưa thực sự gắn với thị trường lao động, mới tập trung nhiều cho khu vực chính thức chiếm đại đa số, chưa có chính sách phù hợp cho khu vực phi chính thức chiếm thiểu số (nơi người lao động dễ bị tổn thương), còn nặng về giải quyết trợ cấp thất nghiệp, chưa chú ý thỏa đáng đến các giải pháp phòng ngừa theo thông lệ quốc tế.
Nguyên nhân tồn tại hạn chế:
Một số cấp ủy, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo thiếu quyết liệt. Năng lực, hiệu lực của quá trình quản lý nhà nước hiệu quả thấp; tính tuân thủ pháp luật chưa cao. Nhận thức tầm quan trọng của bảo hiểm y tế còn thấp.
Mục tiêu:
Bảo hiểm xã hội thực sự là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội.
Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa tầng, hiện đại và hội nhập quốc tế theo nguyên tắc đóng-hưởng, đa dạng, công bằng, bình đẳng, bền vững và chia sẻ.
Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và phát triển hệ thống thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội chuyên nghiệp, tinh gọn, hiện đại, minh bạch và tin cậy.
Bảo đảm cân đối Quỹ bảo hiểm xã hội trong dài hạn; mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân.
Cần mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc sang các nhóm đối tượng khác; Đẩy nhanh quá trình gia tăng số lao động tham gia bảo hiểm xã hội trong khu vực phi chính thức.
Nghị quyết đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để thực hiện các mục tiêu về bảo hiểm xã hội: đẩy mạnh phát triển lãnh đạo, chỉ đạo công tác thông tin và tuyên truyền hay nâng cao nhận thức về chính sách bảo hiểm xã hội; thêm nữa hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động, việc làm, bảo hiểm xã hội; nâng cao hiệu quả hiệu lực quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội.
4. Đề xuất, kiến nghị những giải pháp để tổ chức thực hiện có hiệu quả các nghị quyết hội nghị Trung ương 7 (khóa XII):
Nhận thức rõ thực trạng; nắm vững quan điểm, nhiệm vụ mục tiêu, giải pháp nêu trong Nghị quyết để tổ chức thực hiện hiệu quả, tổ chức cần nghiêm túc quán triệt, sâu sắc Nghị quyết. Xác định rõ nhiệm vụ, trách nhiệm cụ thể của từng tổ chức, cá nhân người đứng đầu trong hệ thống chính trị.
Cùng với việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, khẩn trương cơ cấu, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ các ngành các cấp theo vị trí việc làm, bảo đảm đúng người, năng lực, đúng việc, giảm số lượng, nâng cao chất lượng, cơ cấu hợp lý, người đứng đầu chịu trách nhiệm chính về quản lý cán bộ theo phân cấp.
Cụ thể hóa tiêu chuẩn, bảo đảm chặt chẽ quy trình, thủ tục và hồ sơ nhân sự; mở rộng, phát huy dân chủ, tăng cường cơ chế cung cấp, trao đổi thông tin, chất vấn, phản biện và giải trình khi có yêu cầu trong công tác cán bộ.
Tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác cán bộ “trung thành, trung thực, gương mẫu, trong sáng, tinh thông” đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới…
5. Liên hệ bản thân:
Là một hiệu trưởng trường ….. tôi luôn làm theo tư tưởng của Ðảng là Chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, luôn kiên định có quan điểm những vấn đề quan điểm có tính nguyên tắc.
Thử thách rèn luyện qua thực tiễn, có thành tích nổi trội, có “sản phẩm” cụ thể, đã được rèn luyện bồi dưỡng theo chức danh và có triển vọng phát triển.
Vì cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, cần rèn luyện trí tuệ ngang tầm để thực hiện CNH-HĐH đất nước
“Ðẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, trong sạch, tiên phong đi đầu trong cuộc vận động, xây dựng, chỉnh đốn Ðảng.
Có trách nhiệm cao, tận tụy và tâm huyết với công việc được giao. Luôn gương mẫu sáng tạo làm gương quản lí bộ phận cán bộ cấp dưới chặt chẽ nghiêm ngặt.
Tuổi thực hiện theo ba độ tuổi để bảo đảm sự kế thừa trong công tác lãnh đạo và nên theo phương châm: Nhất quán, có nguyên tắc và có cân nhắc để chọn những người có tài tham gia lãnh đạo, có đức nhất là tham gia các vị trí chủ chốt, đứng đầu. Luôn đổi mới học hỏi nghiên cứu học tập để nâng năng lực của bản thân xứng đáng với chức vụ của mình.
Người viết bài thu hoạch
THAM KHẢO THÊM: