Hôm nay chúng tôi sẽ gửi đến bạn Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên Tiểu học Module 28 để giúp độc giả thấy được tầm quan trọng của việc kết hợp đánh giá bằng điểm số và đánh giá bằng chữ.
Mục lục bài viết
1. Đổi mới đánh giá kết quả học tập ở tiểu học thông qua đánh giá bằng điểm số kết hợp với đánh giá bằng nhận xét:
1.1. Đánh giá bằng điểm số là gì?
Sử dụng những mức điểm khác nhau trong 1 thang điểm để chỉ ra mức độ về kiến thức, kỹ năng mà HS đã thể hiện được qua một hoạt động hoặc sản phẩm học tập. Trong thang điểm thì mỗi mức điểm đi kèm theo là những tiêu chí tương ứng (đáp án, hướng dẫn chấm điểm) và căn cứ vào đó GV giải thích ý nghĩa của các điểm số và cho những nhận xét cụ thể về bài làm của HS.
1.2. Giải thích ý nghĩa của điểm số:
Đây là một hoạt động phức tạp vì nó phản ánh trình độ học lực và phẩm chất của HS. Người quản lý xem đó là chứng cứ xác định trình độ học vấn của HS và khả năng giảng dạy của GV. Mặt khác giúp GV và nhà quản lý nắm được chất lượng dạy – học một cách cụ thể hơn, từ đó đưa ra những quyết sách phù hợp điều chỉnh quá trình dạy học. Bên cạnh đó việc lý giải kiến thức, kỹ năng hay năng lực của HS thể hiện qua điểm số có tác dụng thúc đẩy các em học tốt hơn.
1.3. Giáo viên cần làm gì để hiểu rõ hơn ý nghĩa của điểm số:
– Xác định mục tiêu đánh giá: Kiến thức, kĩ năng, thái độ, năng lực cần đánh giá.
– Để có một sản phẩm có giá trị làm căn cứ cho điểm và qua đó đánh giá đúng trình độ của học sinh, cần chuẩn bị chu đáo các bài kiểm tra cụ thể:
Nội dung kiểm tra cần bao quát nhiều mặt kiến thức, kỹ năng mà học sinh đã học.
Mục tiêu kế hoạch nêu trong tháng, trong học kỳ phải được nêu trong bài kiểm tra.
Xây dựng một quy mô. Quá trình chấm điểm có thể được điều chỉnh cho các bài tập và câu trả lời bất ngờ.
Điều chỉnh các câu hỏi và bài tập nếu bạn thấy bất kỳ sự mơ hồ nào trong bài kiểm tra.
Xác định ngưỡng đạt yêu cầu của phép thử.
Thu thập các kênh thông tin khác nhau từ quá trình học tập của học sinh để hỗ trợ diễn giải điểm số của học sinh.
1.4. Đánh giá bằng động viên:
Đánh giá bằng động viên là động viên, khuyến khích sự tiến bộ của học sinh khi kiểm tra, đánh giá. Thường dùng để cho điểm hoặc nhận xét nhằm kích thích tinh thần, tình cảm của học sinh, từ đó thúc đẩy các em thực hiện tốt nhiệm vụ tiếp theo với sự phấn đấu cao hơn.
1.5. Cho điểm:
Cho điểm là quá trình xếp loại trình độ hoặc phẩm chất năng lực của học sinh trên cơ sở xem xét kết quả học tập đạt được thông qua quá trình kiểm tra liên tục và có hệ thống. Kết quả học tập được tính bằng điểm hoặc bằng lời nhận xét. Kết quả đánh giá được sử dụng để đưa ra những quyết định nhất định đối với học sinh như xác nhận trình độ, lên lớp, khen thưởng nên có ý nghĩa quản lý quan trọng.
2. Yêu cầu, tiêu chí xây dựng đề kiểm tra, quy trình ra đề kiểm tra học kỳ:
* Một số vấn đề về đánh giá, xếp loại: Mục đích, nguyên tắc đánh giá, xếp loại, hình thức đánh giá.
Yêu cầu, tiêu chí kiểm tra, quy trình kiểm tra học kỳ tiểu học:
a) Yêu cầu đối với bài kiểm tra học kỳ
Nội dung bao quát chương trình đã học.
Đảm bảo tính chính xác và khoa học.
Đảm bảo mục tiêu dạy học, bám sát chuẩn kiến thức, kỹ năng và yêu cầu về thái độ ở các mức độ quy định trong chương trình giáo dục tiểu học.
Phù hợp với thời gian thử nghiệm.
Góp phần đánh giá khách quan trình độ của học sinh.
b) Chỉ tiêu kiểm tra học kỳ.
– Nội dung không nằm ngoài chương trình học kỳ.
Trong một bài thi trắc nghiệm, xác định tỉ lệ phù hợp giữa câu hỏi trắc nghiệm khách quan và câu hỏi tự luận.
Tỉ lệ số điểm của các mức độ nhận thức trên tổng điểm phù hợp với chuẩn kiến thức, kỹ năng và yêu cầu về thái độ của môn học: Nhận biết, thông hiểu đạt khoảng 80%, vận dụng 20%.
Các câu hỏi của đề phải được diễn đạt rõ ràng, đơn giản, đúng và đáp ứng yêu cầu của đề.
– Mỗi câu hỏi phải phù hợp với thời gian dự kiến trả lời và với số điểm dành cho nó.
c) Quy trình ra đề thi học kỳ.
C1. Xác định mục tiêu cấp độ, nội dung và hình thức, kiểm tra.
C2. Thiết lập một bảng hai chiều.
C3. Thiết kế câu hỏi theo bảng 2 chiều.
C4. Xây dựng đáp án và hướng dẫn chấm điểm.
* Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình.
Chương trình giáo dục tiểu học (ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05 tháng 5 năm 2006 của Bộ Giáo dục và Đào tạo) đã xác định chuẩn kiến thức, kỹ năng và yêu cầu. Chương trình giáo dục tiểu học được coi là “những yêu cầu cơ bản và tối thiểu về kiến thức, kỹ năng, môn học và hoạt động giáo dục mà học sinh cần có và có thể đạt được”. Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng là quá trình dạy học nhằm bảo đảm cho mọi học sinh đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng cơ bản của môn học trong chương trình bằng sự nỗ lực của bản thân, đồng thời đáp ứng nhu cầu của học sinh sinh viên, phát triển năng lực cá nhân của từng học sinh trong từng môn học hoặc trong từng nội dung của từng môn học.
Việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình được thực hiện theo các yêu cầu cơ bản sau:
* Đối với môn đánh giá bằng điểm:
– Khi xây dựng đề kiểm tra cần bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng và tham khảo sách giáo viên đối với 80-90% chuẩn kiến thức kĩ năng và 10-20% vận dụng chuẩn kiến thức kĩ năng phát triển. Thời gian khám định kỳ khoảng 40 phút.
* Đối với các đối tượng được đánh giá bằng nhận xét:
Giáo viên cần căn cứ vào chuẩn đánh giá của từng môn học, từng học kỳ, từng lớp (theo chuẩn KT-KN của bộ môn để đánh giá, xếp loại học sinh đạt (A, A+) hoặc chưa hoàn thành, không gây áp lực cho cả thầy và trò, khơi dậy tiềm năng học tập của học sinh.
3. Vì sao phải kết hợp đánh giá bằng điểm số và đánh giá bằng nhận xét:
Dự thảo nêu rõ, mục đích của đánh giá nhằm cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, xác định kết quả học tập, rèn luyện của học sinh so với mục tiêu giáo dục và sự tiến bộ của học sinh để định hướng hoạt động dạy nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục.
Nguyên tắc đánh giá là đảm bảo công bằng, trung thực, khách quan; đánh giá bằng nhiều phương pháp, hình thức, kỹ thuật và công cụ khác nhau; kết hợp giữa đánh giá quá trình và đánh giá tổng kết; kết hợp đánh giá bằng nhận xét và bằng điểm số. Đánh giá chung giữa giáo viên, học sinh và phụ huynh hoặc người giám hộ của học sinh.
Theo dự thảo, các môn học: Thể dục, Mỹ thuật, Âm nhạc, Mỹ thuật, nội dung giáo dục địa phương, hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp được đánh giá bằng nhận xét.
Các môn còn lại đánh giá bằng nhận xét kết hợp đánh giá bằng điểm số.
Đánh giá bằng nhận xét được thực hiện trong quá trình dạy học bộ môn, bao gồm: Nhận xét của giáo viên đối với học sinh hoặc nhóm học sinh; học sinh tự đánh giá, nhận xét lẫn nhau. Nhận xét của cha mẹ học sinh và các tổ chức, cá nhân có liên quan nêu rõ những ưu điểm nổi bật, hạn chế và những tiến bộ rõ nét của học sinh trong quá trình học tập, rèn luyện theo yêu cầu cần thiết trong chương trình học.
Đối với bài kiểm tra đánh giá bằng nhận xét được đánh giá ở hai mức: Đạt: Đáp ứng yêu cầu bắt buộc quy định trong chương trình môn học; Mức độ Không hài lòng: Còn lại.
Việc cho điểm được thực hiện thông qua đánh giá thường xuyên, đánh giá định kỳ việc thực hiện nhiệm vụ học tập và rèn luyện của học sinh theo yêu cầu cần đạt được quy định trong chương trình môn học. Thời gian làm bài kiểm tra, đánh giá định kỳ theo hình thức thi trên giấy hoặc trên máy tính từ 45 phút đến 90 phút, tối đa 120 phút đối với môn chuyên.
Đánh giá bằng điểm theo thang điểm 10, nếu sử dụng thang điểm khác phải quy đổi về thang điểm 10. Điểm kiểm tra, đánh giá là số nguyên hoặc số thập phân lấy đến chữ số thập phân thứ nhất sau khi làm bài kiểm tra.
Về đánh giá kết quả học tập của học sinh trong học kỳ và cả năm học, dự thảo quy định, kết quả học tập của học sinh được đánh giá thành 4 mức: Tốt, Khá, Đạt, Không đạt.
Việc đánh giá học sinh này không chỉ về mặt điểm số, mà còn là động lực để giúp các em phát triển.
THAM KHẢO THÊM: