Hôm nay chúng tôi sẽ giới thiệu đến các bạn Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên GV THCS Module 25 để giúp các bạn hiểu rõ hơn vai trò của việc nghiên cứu khoa học để áp dụng vào chương trình giảng dạy
Mục lục bài viết
1. Tìm hiểu các vấn đề liên quan đến viết sáng kiến kinh nghiệm trong trường học Trung học cơ sở:
1.1. Nghiên cứu khoa học:
Cho đến nay, trong các tài liệu lý luận, các tác giả trong và ngoài nước đã có nhiều cách tiếp cận nghiên cứu khoa học nên đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau. Trong đó có một cách tiếp cận mà chúng tôi cho là hợp lý nhất, đó là:
Nghiên cứu khoa học là hoạt động tìm hiểu, phát hiện, giải thích và kiểm nghiệm một cách có hệ thống các sự kiện, hiện tượng trong thực tế khách quan. Mục đích của nghiên cứu khoa học là hình thành những tri thức mới về thế giới khách quan và tìm cách vận dụng chúng vào thực tiễn, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người.
– Thuật ngữ nghiên cứu còn được dùng để nói về hoạt động khảo sát thực tế, thu thập thông tin, rút kinh nghiệm, tìm hướng giải quyết các vấn đề thuộc lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ có liên quan phương pháp khoa học chuyên gia.
Trường hợp thứ nhất, hoạt động nghiên cứu của các nhà khoa học chuyên nghiệp được thực hiện trong viện nghiên cứu, trong trường đại học, với các đề tài khoa học cấp quốc gia, cấp bộ, ngành, tỉnh, thành phố và cấp tỉnh.
Trường hợp thứ hai, hoạt động nghiên cứu của chuyên gia được thực hiện ngay trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh tế, văn hóa, xã hội, trong các đơn vị sản xuất, trường học,… để giải quyết vấn đề những vướng mắc, khó khăn trong hoạt động nghề nghiệp để tìm cách cải tiến, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả lao động. Đây là một hoạt động rất phổ biến trong thời đại ngày nay giúp thu hẹp khoảng cách giữa các nhà chuyên môn và các nhà khoa học, bởi nghiên cứu khoa học là sự hỗ trợ rất đắc lực cho các hoạt động chuyên môn. Người có chuyên môn còn là những người có khả năng nghiên cứu khoa học tốt, có kỹ năng tiếp cận và nghiên cứu ở mức độ chuyên sâu.
Như vậy, nghiên cứu khoa học ít nhất có hai cấp độ: nghiên cứu chuyên môn nhằm phát triển khoa học và công nghệ và nghiên cứu chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động chuyên môn.
Nghiên cứu tổng kết sáng kiến kinh nghiệm giáo dục trong nhà trường do giáo viên THCS thực hiện nhằm giúp giáo viên nâng cao năng lực sư phạm làm tốt công tác giảng dạy và giáo dục.
Nghiên cứu khoa học hiện đại có bốn loại, trong đó hai loại quan trọng nhất là nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng.
1.2. Nghiên cứu khoa học:
Nghiên cứu cơ bản (hay còn gọi là nghiên cứu thuần túy) là loại hình nghiên cứu được thực hiện bằng sự say mê sáng tạo của các nhà khoa học nhằm trả lời những câu hỏi khoa học thuần túy. Động cơ thúc đẩy các nhà khoa học nghiên cứu cơ bản là tìm tòi, khám phá để mở rộng hiểu biết về thế giới khách quan, sáng tạo hệ thống lý luận khoa học mới, điều mà các nhà khoa học chưa đặt ra. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cơ bản có ý nghĩa rất quan trọng vì nó là cơ sở cho sự phát triển của toàn bộ hệ thống khoa học và công nghệ, sẽ mang lại những thành tựu kinh tế to lớn cho nhân loại.
– Nghiên cứu cơ bản trong thời kỳ hiện đại thường được thực hiện ở các quốc gia, ở các viện nghiên cứu khoa học, nơi có tiềm lực khoa học, nhiều nhà khoa học tài năng, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, nguồn tài chính dồi dào và thông tin khoa học phong phú.
1.3. Nghiên cứu ứng dụng:
Nghiên cứu ứng dụng là nghiên cứu sử dụng các lý thuyết khoa học cơ bản để giải quyết các vấn đề trong thế giới thực. Mục đích của nghiên cứu ứng dụng là tạo ra quy trình công nghệ mới, phương pháp quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội mới, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả lao động, phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội hóa.
– Nghiên cứu ứng dụng được thực hiện phổ biến ở các nước đang hiện đại hóa công nghệ. Nghiên cứu ứng dụng thu hẹp khoảng cách giữa lý thuyết khoa học và đời sống thực tế, giúp khoa học và sản xuất cùng nhau phát triển nhanh hơn.
Hiện nay, một số nhà khoa học nhận thấy tính cấp thiết của việc giải quyết các vấn đề toàn cầu như bùng nổ dân số, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên… cho rằng đã đến lúc phải chuyển trọng tâm từ nghiên cứu cơ bản sang nghiên cứu ứng dụng. Đây là sự nhấn mạnh về tầm quan trọng của nghiên cứu ứng dụng trong xã hội hiện đại.
Trong lịch sử loài người có rất nhiều công trình nghiên cứu ứng dụng đã cho ra đời những phát minh, sáng chế có ý nghĩa to lớn đối với đời sống con người, chẳng hạn con người áp dụng định luật Archimed: “Lực đẩy Ác-si-mét” áp dụng cho một vật thể bằng trọng lực chất lỏng bị vật thể chiếm chỗ” để trục vớt những con tàu bị chìm.
Theo France Press, trong thế kỷ XX, nhân loại có 12 phát minh vĩ đại như sau:
– Chiếc máy bay được phát minh đầu tiên:
Năm 1903, hai anh em nhà Wright (Orville và Wilbur Wright) đã thực hiện chuyến bay thành công đầu tiên trong lịch sử nhân loại trên một thiết bị bay chạy bằng năng lượng do họ phát minh ra. Năm 1930, kỹ sư người Anh Ph. Watl đã phát minh ra động cơ phản lực. 9 năm sau, công ty Heinkel của Đức đã chế tạo thành công chiếc máy bay khổng lồ có thể chứa tới 700 hành khách. Ngày nay, máy bay là phương tiện di chuyển phổ biến và được sử dụng rộng rãi trên khắp thế giới.
– Phát minh thứ hai: Tivi
Năm 1923, kỹ sư người Scotland J. Berd đã phát minh ra chiếc máy có khả năng thu nhận hình ảnh từ tín hiệu điện từ – nó là tiền thân của chiếc tivi ngày nay. Năm 1932, đài BBC của Anh bắt đầu phát các chương trình truyền hình thông thường. Ngày nay sóng truyền hình có ở mọi nơi trên trái đất thông qua các trạm tiếp sóng cáp hoặc vệ tinh.
– Phát minh thứ ba: Peniciline
Peniciline “thần dược” của thế kỷ 20 được tạo ra vào năm 1920 bởi nhà nghiên cứu người Scotland Alexander Fleming, ông đã phát hiện ra một loại nấm mốc có khả năng tiêu diệt vi khuẩn hiện diện xung quanh chúng.
Mười năm sau, một nhóm các nhà khoa học Anh đã tìm ra cách làm sạch hợp chất khỏi nấm mốc này. Năm 1943, thuốc kháng sinh đầu tiên penicillin được sản xuất và sử dụng rộng rãi trong y học, cứu sống hàng triệu người mỗi năm.
– Phát minh thứ tư: phản ứng nhiệt hạch
Năm 1942, một nhóm các nhà khoa học tại Đại học Chicagirliy, Mỹ đã thành công trong việc nghiên cứu sự phân chia các nguyên tử và nguyên tố phóng xạ. Ba năm sau, quả bom nguyên tử đầu tiên được thử nghiệm. Một tháng sau, hai quả bom nguyên tử được thả xuống Hiroshima và Nagasaki. Ngày nay năng lượng nguyên tử được sử dụng chủ yếu cho mục đích hòa bình.
– Phát minh thứ năm: Máy tính điện tử
Máy tính cơ điện đầu tiên được tạo ra vào năm 1943 để phát hiện chìa khóa của Đức Quốc xã trong Thế chiến II, các phát minh tiếp theo là bóng bán dẫn (1947), bộ vi xử lý (1970), đĩa cứng (1956), modem (1900), chuột (1903)… cho thấy tốc độ thu nhận và xử lý thông tin của máy tính tăng lên hàng vạn lần. Ngày nay máy tính là công cụ không thể thiếu trong bất kỳ ngành nghề nào.
– Phát minh thứ sáu: Thuốc tránh thai
Năm 1954, các bác sĩ người Mỹ Gregory Pincus, John Rock, Min-chueh Chang đã phát minh ra những viên thuốc tránh thai đầu tiên và hiện nay chúng được sử dụng rộng rãi, giúp phụ nữ kiểm soát kế hoạch sinh nở của mình, tích cực lao động và xây dựng cuộc sống.
– Phát minh thứ bảy: ADN
Năm 1953, nhà khoa học người Anh Cric và nhà khoa học người Mỹ J. Watson đã phát hiện ra phân tử ADN mang thông tin di truyền tạo nên thành công rực rỡ trong y học và nông học. Bây giờ bộ gen của con người đã được lập bản đồ được thành lập, phục vụ cho cuộc sống tương lai của nhân loại.
– Phát minh thứ tám: Laser
Ý tưởng về tia laser được Einstein đưa ra vào năm 1917, nhưng phải đến 40 năm sau, Đại học G. Guld-Columbia của Hoa Kỳ mới biến nó thành hiện thực, tia laser nhanh chóng được ứng dụng rộng rãi từ hàn kim loại đến hàn kim loại.
– Phát minh thứ chín: Cấy ghép các cơ quan trong cơ thể người
Năm 1967, bác sĩ C.Bamard người Nam Phi đã ghép thành công quả tim của người vừa chết cho một bệnh nhân. Sau đó, y học đã thành công trong việc cấy ghép tay, tuyến tụy, da và buồng trứng để thay thế một số bộ phận động vật cho bệnh nhân.
– Phát minh thứ mười: Sinh con trong ống nghiệm
Bé gái đầu tiên được sinh ra trong ống nghiệm là Liza Braun. Thành công này của bài thuốc đã mang lại hạnh phúc cho nhiều gia đình hiếm muộn.
– Phát minh thứ mười một: Bay vào vũ trụ
Kỷ nguyên vũ trụ mở ra khi vệ tinh nhân tạo đầu tiên của Liên Xô được phóng lên quỹ đạo. Bốn năm sau Gagarin bay vào vũ trụ. Tám năm sau, ba phi hành gia người Mỹ đáp xuống mặt trăng. Hiện nay, vệ tinh được sử dụng rộng rãi để tiếp sóng điện thoại, truyền hình, dự báo thời tiết và nghiên cứu khoa học.
– Phát minh thứ mười hai: Internet
Năm 1969, lần đầu tiên trong lịch sử khoa học, dữ liệu thông tin được truyền giữa hai máy tính cách nhau hàng nghìn km, tiền thân của công nghệ thông tin và viễn thông. Năm 1903, Robert E. Kahn, Vint Cerf đã tạo ra mạng TCP/IP đầu tiên và hiện nay trên trái đất có hàng tỷ người sử dụng Internet như một phương tiện liên lạc chủ yếu.
1.4. Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng:
Nghiên cứu sư phạm ứng dụng là loại hình nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực giáo dục, thông qua các tác động hoặc can thiệp sư phạm vào quá trình giáo dục và đánh giá mức độ ảnh hưởng của chúng đến chất lượng và hiệu quả giáo dục (Tài liệu Đề án Giáo dục Việt Nam – BU, NXB ĐHSP Hà Nội, 2011).
Nghiên cứu sư phạm ứng dụng được thực hiện trong nhà trường nên có hai yếu tố quan trọng cần lưu ý, một là các tác động sư phạm và hai là người tổ chức các tác động đó:
– Tác động sư phạm ở đây là các lý luận khoa học tâm lý học, sư phạm học, khoa học quản lý giáo dục… của giáo viên và cán bộ quản lý.
Lý luận giáo dục được sưu tầm từ các nguồn khác nhau, hoặc thu được từ quá trình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên của ngành giáo dục.
– Người nghiên cứu tổ chức thực hiện các tác động sư phạm và đánh giá tác động của chúng đối với hiệu quả giáo dục học sinh cũng chính là giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục đang giảng dạy và công tác trong nhà trường.
Như Guskey T.R đã lưu ý: “Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng là cách tốt nhất để xác định các vấn đề giáo dục ở nơi chúng xuất hiện: trong lớp, trong trường. Những người đang hoạt động trong môi trường giáo dục là những người trực tiếp tham gia vào quá trình nghiên cứu sẽ phát hiện ra những vấn đề cần nghiên cứu, những lý thuyết khoa học cần áp dụng khi cần thiết, những vấn đề cần nghiên cứu. (Guskey T.R. (2000), Thousand Oaks Career Development Review, CA. Corwin Publishing).
Như vậy, nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng thuộc cấp độ thứ hai – nghiên cứu của giáo viên nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường.
2. Ý nghĩa của việc viết sáng kiến kinh nghiệm giáo dục trong trường trung học cơ sở:
2.1. Ý nghĩa của việc viết sáng kiến kinh nghiệm giáo dục đối với nhà giáo:
Đối với giáo viên đang giảng dạy ở trường THCS, viết sáng kiến kinh nghiệm giáo dục vừa là hoạt động nghiên cứu khoa học, vừa là hình thức tự học, tự bồi dưỡng và phát triển năng lực nghề nghiệp. Vì vậy, nó có nhiều tác dụng, đó là:
– Hình thành quan điểm nghiên cứu trong hoạt động nghề nghiệp, nhà giáo giỏi là người chỉ phán xét, quyết định khi có đủ căn cứ khoa học và thực tiễn.
– Hình thành các kĩ năng nghiên cứu khoa học như: kĩ năng phát hiện và giải quyết vấn đề, kĩ năng tìm kiếm, xử lý thông tin, kĩ năng suy luận để rút ra bài học bổ ích.
Nhà giáo dục có kỹ năng nghiên cứu khoa học là người có khả năng hiểu và nắm bắt được đặc điểm tâm, sinh lý của học sinh THCS, hiểu được trình độ, năng lực, nhu cầu, hứng thú, thái độ của các em học tập của học sinh để từ đó tìm ra phương pháp giáo dục phù hợp trên cơ sở nắm vững mối quan hệ nhân quả của các tác động sư phạm đối với việc hình thành nhân cách học sinh.
– Giáo viên có kỹ năng nghiên cứu là người thường xuyên cập nhật để mở rộng kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm để hoạt động giáo dục ngày càng có chất lượng và hiệu quả.
– Giáo viên có kỹ năng nghiên cứu, có khả năng tiếp nhận các lý luận khoa học hiện đại, lựa chọn và vận dụng sáng tạo các phương pháp giáo dục tiên tiến.
– Người giáo viên có kỹ năng nghiên cứu là người có khả năng tư duy chuyên nghiệp, xác định được mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục, hình dung được các bước, dự đoán được các tình huống sư phạm có thể xảy ra. Tạo và chuẩn bị các phương tiện hỗ trợ kỹ thuật.
– Người giáo viên NCKH giỏi là người có kỹ năng thiết kế bài dạy, xây dựng nội dung chương trình, sử dụng các phương pháp giáo dục linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng học sinh và hoàn cảnh dạy học cụ thể.
– Rút kinh nghiệm còn giúp giáo viên hình thành kỹ năng tự đánh giá và đánh giá hiệu quả của quá trình giáo dục để đổi mới phương pháp giáo dục học sinh tốt hơn.
2.2. Ý nghĩa của việc viết sáng kiến kinh nghiệm giáo dục đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường:
– Sáng kiến kinh nghiệm giáo dục sáng tạo là kết quả lao động sáng tạo của giáo viên nên việc viết sáng kiến kinh nghiệm có tác dụng thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng khoa học giáo dục từ đó nâng cao chất lượng giáo dục.
– Viết sáng kiến kinh nghiệm giáo dục xuất phát từ việc giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn giáo dục, từ đó giúp giáo viên tìm ra giải pháp khắc phục khó khăn, cải tiến phương pháp sư phạm của mình.
– Sáng kiến kinh nghiệm là thành công của mỗi cá nhân, của một tập thể sư phạm tiên tiến, tạo cho giáo viên niềm tin về khả năng đóng góp cho sự nghiệp giáo dục của nhà trường và địa phương.
– Viết sáng kiến kinh nghiệm giáo dục giúp nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục thế hệ trẻ, quán triệt chủ trương đổi mới toàn diện nâng cao chất lượng giáo dục toàn ngành.
– Các sáng kiến kinh nghiệm có thể được trao đổi, phổ biến để áp dụng rộng rãi trong các nhà trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, để các kinh nghiệm tiên tiến được nhân rộng ở các địa phương.
– Viết sáng kiến kinh nghiệm còn tạo động lực thi đua, phấn đấu nâng cao năng lực nghề nghiệp của giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục.
3. Lựa chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm trong trường trung học cơ sở:
3.1. Đề tài sáng kiến kinh nghiệm giáo dục cơ sở là gì?
Chủ đề viết sáng kiến kinh nghiệm là những vấn đề tâm đắc nhất, những thành tích nổi bật nhất trong hoạt động giáo dục của cá nhân hoặc tập thể cần được tổng kết để rút ra bài học kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng. giáo dục và giảng dạy trong nhà trường.
Đề tài viết bản tổng kết kinh nghiệm nhìn chung được xây dựng trên các cơ sở sau:
– Phát hiện một hiện tượng mới, một sự bất thường mới nảy sinh trong nhà trường.
– Phát hiện những mâu thuẫn giữa lý luận và thực tiễn đã tạo ra khoảng cách không thể chấp nhận được.
– Phát hiện những điểm yếu của các phương pháp hiện có khiến công việc không đạt hiệu quả như mong muốn.
– Phát hiện những thành công khi áp dụng sáng kiến mới vào dạy học các môn học, lớp học cụ thể.
– Tuyên dương những cá nhân, tập thể giáo viên có thành tích xuất sắc.
– Đề tài sáng kiến kinh nghiệm giáo dục thường bắt nguồn từ ý tưởng trong khi giải quyết các vấn đề thực tiễn, trong nghiên cứu các vấn đề lý luận hoặc qua trao đổi, tranh luận, thảo luận với đồng nghiệp.
3.2. Tên đề tài:
– Phải nêu tên từng chuyên đề tổng kết kinh nghiệm, sáng kiến.
– Tên đề tài sáng kiến kinh nghiệm giáo dục phải được diễn đạt bằng câu văn chính xác, thời lượng không quá 20 từ.
– Không dùng từ tượng hình, không bắt đầu bằng các cụm từ: một số vấn đề, bước đầu tìm hiểu, thử trao đổi, góp phần làm sáng tỏ.
– Tên sáng kiến kinh nghiệm phải thể hiện rõ đối tượng, phạm vi nghiên cứu, để ta hình dung được nội dung nghiên cứu.
3.3. Những yêu cầu khi lựa chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm:
Viết sáng kiến kinh nghiệm là nhiệm vụ của giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục trong nhà trường nên khi chọn đề tài cần lưu ý một số điểm sau:
– Phải là sáng kiến kinh nghiệm của bản thân, của tập thể nhà trường, gắn với công việc cụ thể đang làm, môn học đang giảng dạy, tránh tự biên tập, xa rời thực tế của báo cáo sáng kiến kinh nghiệm. Làm như vậy sẽ không thiết thực, không thuyết phục được đồng nghiệp.
– Đề tài sáng kiến kinh nghiệm đã có tác dụng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giáo dục của bản thân và của nhà trường một cách cụ thể.
– Các đề tài sáng kiến, kinh nghiệm phải có tính mới, có tính ứng dụng, dễ phổ biến cho đồng nghiệp.
– Kết quả nghiên cứu phải phù hợp với xu thế chung của giáo dục, không ngẫu nhiên mà có.
– Đề tài sáng kiến, kinh nghiệm phải phù hợp với những thành tựu tiên tiến của khoa học giáo dục trong nước và trên thế giới.
– Không sao chép kinh nghiệm khoa học quý báu của người khác, làm vội vàng, làm theo phong trào để lấy thành tích.
– Viết sáng kiến kinh nghiệm giáo dục phải là hoạt động có mục đích thiết thực, có kế hoạch, hiệu quả nhằm tìm ra những ý tưởng khoa học sáng tạo, độc đáo của mỗi cá nhân.
THAM KHẢO THÊM: