Nuôi con nuôi làm việc người trưởng thành nhận nuôi một trẻ em hoặc nhiều trẻ em do mình không trực tiếp sinh ra, hoạt động nuôi con nuôi hướng tới mục đích xác lập quan hệ cha mẹ con lâu dài và bền vững. Vậy anh chị em ruột có được quyền nhận nhau làm con nuôi hay không?
Mục lục bài viết
1. Anh chị em ruột có được nhận nhau làm con nuôi không?
Theo quy định của pháp luật hiện nay, nuôi con nuôi là một trong những chế định thể hiện tính nhân đạo sâu sắc, thể hiện tình yêu thương và tinh thần, trách nhiệm cao cả trong mối quan hệ tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau giữa con người với con người. Nuôi con nuôi là khái niệm pháp lý để chỉ việc xác lập quan hệ cha mẹ con giữa người được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi. Mục đích của việc nuôi con nuôi là hướng tới việc xác lập một mối quan hệ cha mẹ con bền vững, lâu dài, vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, đồng thời đảm bảo cho người được nhận làm con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trong một môi trường gia đình tốt nhất. Đồng thời, hoạt động nhận con nuôi cần phải thực hiện đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi cũng cần phải đáp ứng đầy đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, không phải bất cứ trường hợp nào cũng có quyền được nhận con nuôi. Để được nhận con nuôi, người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi cần phải thỏa mãn đầy đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về nuôi con nuôi. Pháp luật cũng quy định một số hành vi bị cấm trong lĩnh vực nhận nuôi con nuôi. Căn cứ theo quy định tại Điều 13 của Luật nuôi con nuôi năm 2010 có quy định về các hành vi bị cấm. Cụ thể bao gồm các hành vi cơ bản sau đây:
– Nghiêm cấm hành vi lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi cá nhân, bóc lột sức lao động của trẻ em, xâm hại tình dục trẻ em dưới bất kỳ hình thức nào, bắt cóc hoặc có hành vi mua bán trẻ em trái quy định của pháp luật;
– Có hành vi giả mạo giấy tờ tài liệu để giải quyết việc nuôi con nuôi tại cơ quan có thẩm quyền;
– Có hành vi phân biệt đối xử giữa con nuôi và con đẻ;
– Lợi dụng việc nuôi con nuôi để thực hiện các hành vi vi phạm quy định của pháp luật về dân số;
– Lợi dụng việc làm con nuôi của các thương binh, người có công với cách mạng, những người thuộc dân tộc thiểu số để hưởng các chế độ và chính sách ưu đãi của nhà nước đối với các đối tượng này;
– Nghiêm cấm hành vi ông bà nhận cháu làm con nuôi, anh/chị/em nhận nhau làm con nuôi;
– Lợi dụng việc nuôi con nuôi để thực hiện hành vi vi phạm quy định của pháp luật, thực hiện các hành vi vi phạm phong tục tập quán, vi phạm truyền thống đạo đức văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Theo đó thì có thể nói, theo điều luật phân tích nêu trên, giữa anh/chị/em ruột với nhau theo quy định của pháp luật sẽ không được nhận nhau làm con nuôi. Hành vi anh chị em ruột nhận cháu làm con nuôi là một trong những hành vi bị nghiêm cấm theo quy định của pháp luật. Mọi hành vi khai gian dối để nhận nhau làm con nuôi sẽ bị xử phạt theo quy định của pháp luật.
2. Anh chị em ruột có hành vi khai sai sự thật để đăng ký việc nuôi con nuôi thì bị phạt hành chính như thế nào?
Theo điều luật phân tích nêu trên thì có thể nói, anh chị em ruột không được nhận nhau làm con nuôi. Hành vi nhận nhau làm con nuôi giữa anh chị em ruột với nhau là một trong những hành vi bị nghiêm cấm theo quy định của pháp luật về nuôi con nuôi. Anh chị em ruột có hành vi khai sai sự thật với cơ quan có thẩm quyền để có thể đăng ký việc nhận nuôi con nuôi là một trong những hành vi vi phạm quy định của pháp luật. Căn cứ theo quy định tại Điều 62 của
– Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với các đối tượng thực hiện một trong những hành vi vi phạm quy định của pháp luật như sau:
+ Thực hiện hành vi khai không đúng sự thật để thực hiện thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi tại cơ quan có thẩm quyền;
+ Có hành vi phân biệt đối xử giữa con nuôi và con đẻ;
+ Không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ báo cáo tình hình phát triển của con nuôi trong nước;
+ Có hành vi tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung trong các loại văn bản và giấy tờ, tài liệu do cơ quan có thẩm quyền, tổ chức hoặc người có thẩm quyền cung cấp để thực hiện thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi.
– Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với các đối tượng thực hiện một trong những hành vi vi phạm quy định của pháp luật như sau:
+ Có hành vi lợi dụng việc nuôi con nuôi để thực hiện các hành vi vi phạm quy định của pháp luật về dân số;
+ Có hành vi lợi dụng việc đưa con nuôi của thương binh, những người có công với cách mạng, những người thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số để hưởng các chế độ chính sách ưu đãi của nhà nước dành cho các đối tượng đó.
– Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với các đối tượng thực hiện một trong những hành vi vi phạm quy định của pháp luật như sau:
+ Có hành vi mua chuộc, đe dọa, ép buộc hoặc thực hiện các hành vi trái quy định của pháp luật dưới các hình thức khác để có sự đồng ý của người có quyền đồng ý cho trẻ em làm con nuôi;
+ Lợi dụng việc cho trẻ em làm con nuôi phải nhận trẻ em làm con nuôi hoặc giới thiệu trẻ em làm con nuôi để trục lợi cá nhân;
+ Lợi dụng việc nhận nuôi con nuôi nhằm bóc lột sức lao động của những người con nuôi.
Theo đó thì có thể nói, anh chị em ruột có hành vi khai sai sự thật với cơ quan có thẩm quyền để thực hiện thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi có thể sẽ bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng theo phân tích nêu trên.
3. Hệ quả của việc nuôi con nuôi được quy định như thế nào?
Căn cứ theo quy định tại Điều 24 của Luật nuôi con nuôi năm 2010 có quy định cụ thể về hệ quả của việc nuôi con nuôi. Theo đó, hệ quả của việc nuôi con nuôi được quy định cụ thể như sau:
– Kể từ ngày giao nhận con nuôi phải giữa cha mẹ nuôi và người được nhận làm con nuôi phát sinh đầy đủ quyền/nghĩa vụ giữa cha mẹ và con theo quy định của pháp luật về hôn nhân gia đình, giữa con người và các thành viên khác trong gia đình của cha mẹ nuôi cũng sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân gia đình, pháp luật dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan;
– Theo yêu cầu của cha mẹ nuôi, thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải ra quyết định thay đổi họ tên của người được nhận làm con nuôi. Quá trình thay đổi họ tên của người được nhận làm con nuôi khi con nuôi từ đủ 09 tuổi trở lên bắt buộc phải được sự đồng ý của người con nuôi đó;
– Dân tộc của con nuôi là trẻ em bị bỏ rơi theo quy định của pháp luật sẽ được xác định theo dân tộc của cha mẹ nuôi;
– Ngoại trừ trường hợp giữa cha mẹ trẻ và cha mẹ chưa có thỏa thuận khác, thì kể từ ngày giao nhận con nuôi trên thực tế, cha mẹ đẻ sẽ không còn quyền và nghĩa vụ chăm sóc, cấp dưỡng, nuôi dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, định đoạt tài sản riêng, quản lý tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi.
Theo đó thì có thể nói, khi thực hiện hoạt động nhận nuôi con nuôi, sẽ phát sinh đầy đủ các hệ quả của việc nuôi con nuôi theo như phân tích nêu trên.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Luật nuôi con nuôi 2010;
– Văn bản hợp nhất 951/VBHN-BTP năm 2019 hợp nhất Nghị định hướng dẫn Luật nuôi con nuôi do Bộ Tư pháp ban hành;
–
– Kế hoạch 175/KH-UBND của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội về việc triển khai thi hành Nghị định 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
THAM KHẢO THÊM: