Án treo là một trong những chế định thể hiện rõ nét tính nhân đạo trong chính sách hình sự của Việt Nam, cho phép người bị kết án tù không phải chấp hành hình phạt trong trại giam nếu đáp ứng đủ điều kiện luật định. Vậy cụ thể, án treo được hiểu như thế nào và Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định ra sao về án tù treo? Cùng tìm hiểu chi tiết các quy định pháp lý liên quan trong nội dung dưới đây.
Mục lục bài viết
1. Án treo được hiểu như thế nào?
Theo quy định của pháp luật thì “án treo” là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Về bản chất pháp lý, người bị Tòa án tuyên án treo vẫn là người có tội, có án nhưng được miễn thực hiện bản án đó có điều kiện.
Án treo được hiểu là việc tạm thời miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện nó thể hiện tính nhân đạo của luật hình sự Việt Nam, có tác dụng khuyến khích người bị kết án tự tu dưỡng và lao động tại cộng đồng với sự giúp đỡ tích cực của xã hội cũng như gia đình. Tuy nhiên án treo là chế định pháp lý mà không phải quốc gia nào cũng có. Tại Việt Nam, án treo được quy định tại khoản 1 Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015.
Án treo là chế định hình sự ra đời từ rất sớm, trải qua một quá trình lịch sử phát triển lâu dài của khoa học hình sự Việt Nam, từ sắc lệnh số 21/SL ngày 14/02/1946 tới nay tuy có nhiều cách hiểu khác nhau. Đôi lúc “án treo” còn được hiểu là “tạm đình chỉ việc thi hành án” hoặc là một biện pháp “hoãn hình phạt tù có điều kiện” hay “biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện”. Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau nhưng án treo chưa bao giờ được coi là hình phạt trong hệ thống hình phạt ở nước ta.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về chế định án treo. Theo tác giả Đinh Văn Quế, nguyên Chánh tòa Hình sự – Tòa án nhân dân tối cao thì: “Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được áp dụng đối với người bị phạt không quá 03 năm tù, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù”.
Theo quan điểm của GS.TS Lê Văn Cảm: “Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù kèm theo một thời gian thử thách nhất định đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm khi có đủ căn cứ và những điều kiện do pháp luật hình sự quy định”.
Theo cuốn từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp có viết: “Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện”.
Theo khoản 1 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì: “Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự”.
Theo Điều 1 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/05/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo: “Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù”.
Kết luận: Chúng tôi đưa ra quan điểm về chế định án treo như sau:
“Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được áp dụng cho người bị kết án phạt tù không quá ba năm, không buộc họ phải chấp hành hình phạt tù khi có đầy đủ những căn cứ và điều kiện nhất định do pháp luật hình sự quy định nhằm khuyến khích họ cải tạo để trở thành công dân có ích cho xã hội, đồng thời cũng cảnh cáo họ là nếu phạm tội mới trong thời gian thử thách thì họ sẽ phải chấp hành hình phạt tù được hưởng án treo của bản án trước đó”.
2. Quy định về án tù treo theo Bộ luật hình sự năm 2015:
2.1. Điều kiện hưởng án treo trong Bộ luật hình sự năm 2015:
Theo Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, một người có thể được xem xét hưởng án treo nếu đáp ứng đồng thời các điều kiện sau:
- Bị xử phạt tù không quá 03 năm: Đây là điều kiện tiên quyết. Nếu mức án tù vượt quá 03 năm thì người phạm tội sẽ không đủ điều kiện để hưởng án treo.
- Có nhân thân tốt: Điều này thể hiện qua việc người phạm tội không có tiền án, tiền sự, hoặc nếu có thì đã được xóa án tích; đồng thời có nơi cư trú rõ ràng, ổn định và có khả năng tự cải tạo.
- Có nhiều tình tiết giảm nhẹ: Người phạm tội phải có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Các tình tiết giảm nhẹ thường gặp như: tự thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng…
- Không gây nguy hiểm cho xã hội: Việc cho hưởng án treo không làm ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
- Xét thấy không cần phải chấp hành hình phạt tù: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của người phạm tội, Tòa án xét thấy việc cho hưởng án treo không cần phải cách ly người đó khỏi xã hội mà vẫn đảm bảo hiệu quả răn đe, giáo dục.
Lưu ý: Tòa án là cơ quan có thẩm quyền duy nhất quyết định việc có cho hưởng án treo hay không, dựa trên việc xem xét toàn diện các yếu tố của vụ án. Đồng thời, điều kiện hưởng án treo được quy định cụ thể hơn tại Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP.
2.2. Thời gian thử thách của án treo theo quy định pháp luật:
Theo khoản 1 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015: Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.
Theo đó khi cho hưởng án treo, Tòa án phải ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm. Thời gian thử thách được tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo phải chịu sự giám sát, giáo dục của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc đơn vị quân đội nơi người đó làm việc, cư trú.
2.3. Quyền và nghĩa vụ của người được hưởng án treo:
Trong thời gian thử thách, người hưởng án treo có các nghĩa vụ pháp lý sau (Điều 87 Luật Thi hành án hình sự năm 2019):
- Có mặt theo giấy triệu tập và cam kết việc chấp hành án theo quy định;
- Thực hiện nghiêm chỉnh việc tuân thủ pháp luật, nghĩa vụ công dân, nội quy, quy chế của nơi cư trú, nơi làm việc, học tập; chấp hành đầy đủ hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại;
- Chịu sự giám sát, giáo dục của cơ quan có thẩm quyền;
- Phải có mặt theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền;
- Hằng tháng phải báo cáo bằng văn bản với Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục về tình hình chấp hành nghĩa vụ.
Nếu trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo vi phạm nghĩa vụ, Ủy ban nhân dân cấp xã có quyền kiến nghị Tòa án xem xét hủy quyết định cho hưởng án treo, buộc người đó chấp hành hình phạt tù.
2.4. Trường hợp hủy án treo và buộc chấp hành hình phạt tù:
Theo khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015: Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự 2015.
Theo đó, nếu người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách, Tòa án sẽ buộc chấp hành hình phạt tù của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo nguyên tắc cộng hình phạt.
Ngoài ra, nếu người đó vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì cơ quan giám sát có thể đề nghị Tòa án hủy quyết định cho hưởng án treo. Tòa án sẽ ra quyết định buộc người đó chấp hành hình phạt tù gốc, đảm bảo tính răn đe và nghiêm minh của pháp luật.
3. Đánh giá chế định án treo hiện hành so với Bộ luật Hình sự năm 1999:
Án treo là một chế định pháp lý đặc thù trong luật hình sự Việt Nam, không phải quốc gia nào trên thế giới cũng áp dụng. Trong quá trình sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự năm 1999 để ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015, đã từng có nhiều ý kiến cho rằng nên bãi bỏ chế định án treo, bởi đã tồn tại hình phạt cải tạo không giam giữ với mục đích và bản chất tương tự. Tuy nhiên, sau quá trình thảo luận, cân nhắc toàn diện trên cơ sở điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội và chính sách hình sự nhân đạo của Nhà nước, Quốc hội đã quyết định giữ nguyên và tiếp tục hoàn thiện chế định án treo.
Hiện nay, Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định cụ thể về án treo – một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, thể hiện rõ tinh thần khoan hồng, hướng thiện và tái hòa nhập xã hội trong chính sách hình sự của Việt Nam. Cụ thể nội dung như sau:
- Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.
- Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.
- Tòa án có thể quyết định áp dụng đối với người được hưởng án treo hình phạt bổ sung nếu trong điều luật áp dụng có quy định hình phạt này.
- Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.
- Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.
So với Điều 60 Bộ luật Hình sự năm 1999, quy định về án treo tại Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được nhà làm luật sửa đổi, bổ sung toàn diện hơn cả về nội dung lẫn kỹ thuật lập pháp. Những quy định mới mang tính bao quát, rõ ràng và cụ thể hơn, thể hiện sự hoàn thiện trong chính sách hình sự nhân đạo của Nhà nước. Cụ thể quy định về án treo tại Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 so với quy định về án treo tại Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999 có một số nội dung mới như sau:
- Thứ nhất: Bổ sung vào khoản 1 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 nội dung người được hưởng án treo phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.
- Thứ hai: Sửa đổi theo hướng quy định chặt chẽ hơn về việc quyết định áp dụng hình phạt bổ sung đối với người được hưởng án treo. Theo đó, quy định tại khoản 3 Điều 60 Bộ luật Hình sự 1999 “Người được hưởng án treo có thể phải chịu hình phạt bổ sung… Điều 36 của Bộ luật này” được sửa đổi thành “Tòa án có thể quyết định áp dụng đối với người được hưởng án treo hình phạt bổ sung nếu trong điều luật áp dụng có quy định hình phạt này” quy định tại khoản 3 Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015.
- Thứ ba: Khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015 bổ sung nội dung mới: “Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”. Đây là quy định mới có tính nghiêm khắc hơn đối với người được hưởng án treo, nhằm đảm bảo để họ thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ thi hành án khi được hưởng án treo.
THAM KHẢO THÊM:

Tư vấn pháp luật qua Zalo


