Các cuộc tấn công của Mỹ trong chiến tranh phá hoại miền Bắc lần 1 là một phần quan trọng của chiến tranh Việt Nam. Chiến dịch này bắt đầu từ 02/03/1965 và kết thúc vào 01/11/1968. Vậy âm mưu và thủ đoạn của Mỹ trong cuộc Chiến tranh này là gì? Mời các bạn cùng theo đọc bài viết dưới đây!
Mục lục bài viết
1. Tóm tắt bối cảnh lịch sử Việt Nam 1964 -1968:
Bối cảnh Việt Nam 1964-1968 là một giai đoạn căng thẳng và biến động trong lịch sử chiến tranh Việt Nam. Đây là thời điểm mà lực lượng cộng sản ở miền Nam, với sự hậu thuẫn của Bắc Việt, đã tăng cường đấu tranh vũ trang và chính trị nhằm giành chính quyền ở nông thôn và các thành phố lớn. Để đối phó với tình hình này, chính quyền Việt Nam Cộng hòa do Ngô Đình Diệm lãnh đạo đã áp dụng các biện pháp bạo lực và đàn áp nhằm tiêu diệt các cơ sở và người ủng hộ cộng sản.
Tuy nhiên, những biện pháp này đã gây ra sự phản ứng của dư luận trong nước và quốc tế, đặc biệt là của Hoa Kỳ, đồng minh chính của miền Nam. Ngày 1 tháng 11 năm 1963, một cuộc đảo chính quân sự do các sĩ quan trung thành với Hoa Kỳ tiến hành đã lật đổ và ám sát Ngô Đình Diệm và em trai của ông là Ngô Đình Nhu. Cuộc đảo chính này đã mở ra một kỷ nguyên bất ổn chính trị ở miền Nam, khi mà các nhóm quân sự liên tục tranh giành quyền lực và không có một chính phủ ổn định nào được hình thành.
Trong khi đó, Hoa Kỳ cũng đã thay đổi chiến lược can thiệp vào Việt Nam, từ việc chỉ cung cấp tài chính và vũ khí cho miền Nam sang việc triển khai trực tiếp binh sĩ Mỹ vào chiến trường. Ngày 2 tháng 8 năm 1964, một vụ va chạm giữa hai tàu tuần tra của Hải quân Hoa Kỳ và hai tàu du kích của Bắc Việt tại Vịnh Bắc Bộ đã được Hoa Kỳ dùng làm bằng chứng để thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, cho phép Tổng thống Lyndon B. Johnson có thể sử dụng quân sự để ngăn chặn “sự xâm lược” của Bắc Việt. Ngày 7 tháng 2 năm 1965, sau khi một căn cứ không quân Mỹ bị tấn công bởi Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ đã bắt đầu chiến dịch không kích nhằm vào các mục tiêu quân sự và công nghiệp của Bắc Việt, được gọi là Chiến dịch Rolling Thunder. Những cuộc không kích này đã kéo dài đến năm 1968 và gây ra hàng ngàn thương vong cho dân thường Bắc Việt.
Trong bối cảnh này, các cuộc đàm phán giữa hai bên chiến tranh đã không có kết quả nào, khi mà cả hai bên đều kiên quyết duy trì những yêu sách không thể dung hòa được. Bắc Việt yêu cầu Hoa Kỳ rút khỏi miền Nam và cho phép tổ chức bầu cử thống nhất cả nước theo thỏa ước Genève năm 1954. Miền Nam và Hoa Kỳ yêu cầu Bắc Việt ngừng hậu thuẫn cho cộng sản ở miền Nam và tôn trọng chủ quyền của Việt Nam Cộng hòa. Trong khi đó, nhân dân miền Nam đã phải chịu đựng những khổ cực và thiệt hại do chiến tranh gây ra, cũng như sự bất công và tham nhũng của các chính quyền lần lượt nắm quyền ở miền Nam.
2. Âm mưu, thủ đoạn của Mỹ trong Chiến tranh phá hoại miền Bắc lần 1:
2.1. Âm mưu của Mỹ trong Chiến tranh phá hoại miền Bắc lần 1:
Âm mưu của Mĩ trong chiến tranh phá hoại miền Bắc từ năm 1965 đến năm 1968 là một trong những chương đen tối nhất của lịch sử chiến tranh Việt Nam. Mục đích của Mĩ là cố gắng ngăn chặn sự tiến bộ của phong trào giải phóng miền Nam, đồng thời ép Bắc Việt đàm phán với chính quyền Sài Gòn. Mĩ cũng đã cố gắng can thiệp vào chính trị nội bộ của Việt Nam, lật đổ các chính quyền thân dân, lập ra các chế độ bù nhìn và độc tài; ngăn chặn sự thống nhất của Việt Nam, duy trì sự ảnh hưởng của Mĩ và các đồng minh tại khu vực Đông Nam Á mà cụ thể hơn là nhằm phá hoại tiềm lực kinh tế, quốc phòng và xã hội của miền Bắc Việt Nam, ngăn chặn nguồn chi viện từ bên ngoài và từ miền Bắc vào miền Nam, và uy hiếp tinh thần, làm lung lay ý chí chống Mĩ của nhân dân hai miền.
2.2. Thủ đoạn của Mỹ trong Chiến tranh phá hoại miền Bắc lần 1:
– Từ năm 1965 đến năm 1968, không quân Mĩ đã thực hiện hàng ngàn cuộc không kích nhằm vào các mục tiêu quân sự và dân sự ở miền Bắc, gây ra hàng triệu thương vong và phá hủy nhiều cơ sở hạ tầng quan trọng.
– Mĩ đã sử dụng các loại vũ khí khủng khiếp như bom napalm, bom mìn, bom hóa học để tàn sát hàng triệu người dân vô tội, phá hủy các công trình dân sinh, gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khỏe thế hệ sau.
– Tấn công phá hoại miền Bắc là một kế hoạch được tiến hành song song của chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền nam nhằm đánh vào hậu phương của cách mạng miền nam. Để có cớ tấn công miền bắc, ngày 31 tháng 07 năm 1964 Mỹ dựng lên “Sự kiện vịnh Bắc Bộ” cho máy bay ném bom bắn phá một số nơi ở miền Bắc như sông Gianh (Quảng Bình), Vinh – Nghệ An …
– Ngày 07 tháng 02 năm 1965, Mỹ cho máy bay ném bom bắn phá thị xã Đồng Hới, đảo Cồn Cỏ, chính thức mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc.
– Mỹ đã huy động hàng nghìn máy bay tối tân thuộc 50 loại khác nhau trong đó có cả máy bay B52, F111 cùng các loại vũ khí hiện đại và một lực lượng hải quân thường xuyên có mặt ở Thái Bình Dương, các căn cứ hải quân ở nam Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác.
– Lực lượng không quân và hải quân Mỹ đã ném bom bắn phá liên tục với cường độ ngày càng tăng, trung bình mỗi ngày miền Bắc phải hứng chịu khoảng 1600 tấn bom đạn của mỹ trút xuống.
– Mục tiêu tấn công của Mỹ không chỉ là các căn cứ quân sự mà còn bao gồm cả những mục tiêu dân sự như: các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, công trình thủy lợi, khu dân cư, trường học, bệnh viện, nhà thờ, nhà trẻ, chùa chiền…
3. Hậu quả của Chiến tranh phá hoại miền Bắc lần 1:
Chiến tranh phá hoại miền Bắc lần 1 của Mỹ không đạt được mục tiêu mong muốn và gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho người dân miền Bắc.
Một trong những hậu quả của chiến tranh phá hoại miền Bắc lần 1 là sự thiệt hại về người và của. Theo ước tính, có khoảng 182.000 người dân miền Bắc thiệt mạng hoặc bị thương trong chiến dịch này, trong đó có nhiều phụ nữ, trẻ em và người già. Ngoài ra, hàng nghìn công trình dân sự như nhà ở, trường học, bệnh viện, nhà máy, cầu đường, đập thủy điện bị phá hủy hoặc hư hại nặng do các cuộc không kích. Điều này đã gây ra nhiều khó khăn cho đời sống và sản xuất của người dân miền Bắc.
Không chỉ vây, chiến tranh phá hoại miền Bắc lần 1 còn gây ra hậu quả là sự ô nhiễm môi trường nghiêm trọng ở miền Bắc Việt . Các loại vũ khí như bom, tên lửa, mìn, pháo hoa, chất đốt cháy napalm, chất diệt cỏ da cam đã gây ra nhiều vết thương, bệnh tật và tử vong cho con người và động vật. Ngoài ra, các chất hóa học này cũng đã làm ô nhiễm không khí, nước, đất và sinh vật. Điều này đã ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và sinh kế của người dân miền Bắc trong nhiều thập kỷ sau đó.
4. Miền Bắc chống Chiến tranh phá hoại của Mỹ:
– Để phù hợp với tình hình mới, tháng 01 năm 1965, Hội đồng quốc phòng đã họp và đề ra nhiệm vụ phương hướng công tác trước mắt của miền Bắc là tăng cường công tác phòng thủ trị an sẵn sàng chiến đấu.
– Để chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, miền Bắc đã thực hiện “quân sự hóa toàn dân”, đào đắp công sự chiến đấu, hầm hào, phân tán dân khỏi những vùng trọng điểm để tránh thiệt hại lớn, đảm bảo đời sống ổn định cho người dân.
– Nhân dân miền Bắc đã huy động toàn dân chống giặc, bên cạnh lực lượng phòng không, hải quân với vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại, lực lượng dân quân, du kích, tự vệ chiến đấu của toàn dân không ngừng ngày đêm hỗ trợ phục vụ chiến đấu và khắc phục hậu quả do chiến tranh tàn phá.
– Trong hơn 4 năm (từ ngày 5 tháng 08 năm 1964 đến ngày 1 tháng 11 năm 1968) quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 3234 máy bay Mỹ, trong đó có 6 máy bay B52, 3 máy bay F111, diệt và bắt sống hàng nghìn giặc lái Mỹ, bắn chìm và bị thương 43 tàu chiến và tàn biệt tích.
– Cùng với những thất bại ở chiến trường miền Nam, đặc biệt là sau cuộc tổng công kích tổng khởi nghĩa Tết Mậu thân 1968, Mỹ buộc phải tuyên bố ném bom hạn chế miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra kể từ ngày 31 tháng 03 năm 1968 và đến ngày 1 tháng 11 năm 1968 Mỹ ngừng ném bom bắn phá miền Bắc hoàn toàn.
Miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần 1 của Mỹ là một trong những trang sử oai hùng của dân tộc Việt Nam. Từ năm 1964 đến 1968, nhân dân miền Bắc đã phải đối mặt với những cuộc không kích dữ dội và liên tục của quân đội Mỹ, nhằm cố gắng phá tan ý chí đấu tranh giải phóng của miền Nam và toàn quốc. Nhưng với tinh thần quyết tâm, đoàn kết và sáng tạo, nhân dân miền Bắc đã vượt qua mọi khó khăn, thiệt hại và hi sinh, để bảo vệ thành công lãnh thổ, sản xuất và hậu phương cho mặt trận miền Nam. Miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần 1 của Mỹ cũng là một cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân loại, được sự ủng hộ và giúp đỡ của nhiều nước bạn trên thế giới.