Ai có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam? Cơ quan nào có quyền ra lệnh, quyết định bắt giam người phạm tội? Thẩm quyền quyết định tạm giam bị can, bị cáo.
Khi một người có hành vi vi phạm pháp luật có đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm khi đã bị khởi tố của cơ quan điều tra, thì trong quá trình giải quyết vụ án xét thấy bị can, bị cáo có dấu hiệu bỏ trốn, hoặc nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo có thể tiếp tục phạm tội gây ảnh hưởng đến quá trình điều tra, truy tố, xét xử nên pháp luật đã cho phép các cơ quan tố tụng được phép bắt bị can, bị cáo để giải quyết vụ án. Vậy ai có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam? Cơ quan nào có quyền ra lệnh, quyết định bắt giam người phạm tội? Thẩm quyền quyết định tạm giam bị can, bị cáo.
Mục lục bài viết
- 1 1. Ai có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam?
- 2 2. Cơ quan nào có quyền ra lệnh, quyết định bắt giam người phạm tội?
- 3 3. Thẩm quyền quyết định tạm giam bị can, bị cáo:
- 4 4. Điều kiện áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
- 5 5. Vì sao lệnh tạm giam phải được viện kiểm sát phê chuẩn?
- 6 6. Những người có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
1. Ai có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam?
Theo quy định của
Thông thường thì các bị cáo là những người hoặc các pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của pháp luật hình sự.
Hiện nay, pháp luật hình sự cho phép những người sau đây có quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam bao gồm những người sau đây:
+ Người có thẩm quyền được bắt bị can, bị cáo để tạm giam thuộc về thẩm của thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, khi người có thẩm quyền ra lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành để bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
+ Khi bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì thuộc thẩm quyền của viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp đối với bên quân sự.
+ Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử có thẩm quyền được phép bắt bị can, bị cáo để tạm giam để phục vụ cho quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Khi người có thẩm quyền ra lệnh bắt, quyết định phê chuẩn lệnh, quyết định bắt phải ghi rõ đầy đủ họ tên, địa chỉ của những người bị bắt; lý do bắt là gì và các nội dung quy định như số văn bản , ngày, tháng, năm hiện tại, địa điểm mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã ban hành văn bản tố tụng; Khi ra lệnh bắt bị can, bị cáo thì phải có các căn cứ pháp lý để ban hành văn bản tố tụng; Ghi rõ các nội dung của văn bản tố tụng; Ghi đầy đủ họ tên, chức vụ, chữ ký của người tiến hành tố tụng để ban hành văn bản tố tụng và đóng dấu theo quy định.
Khi các cơ quan tiến hành tố tụng bắt tạm giam các bị can, bị cáo thì những người thi hành lệnh, quyết định phải đọc lệnh, quyết định; giải thích lệnh, quyết định, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt; giao lệnh, quyết định cho người bị bắt theo đúng trình tự thủ tục của luật định.
Khi những người có thẩm quyền của cơ quan tố tụng thực hiện việc tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người khác chứng kiến khi bắt tạm giam bị can,bị cáo. Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc, học tập phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người theo trình tự thủ tục của bộ luật tố tụng hình sự.
Hiện nay, khi các cơ quan tố tụng khi bắt tạm giam bị can, bị cáo thì không được bắt người vào ban đêm trong mọi trường hợp, trừ trường hợp phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã. Theo quy định của pháp luật hình sự mới nhất thì thời hạn mà Bộ luật này quy định được tính theo giờ, ngày, tháng, năm. Đêm được tính từ 22 giờ đến 06 giờ sáng ngày hôm sau.
2. Cơ quan nào có quyền ra lệnh, quyết định bắt giam người phạm tội?
Hiện nay, không phải cơ quan nào cũng có thẩm quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam để phục vụ cho quá trình điều tra, truy tố, khởi tố và giải quyết vụ án mà chỉ có các cơ quan mà bộ luật tố tụng hình sự mới có thẩm quyền tiến hành bắt bị can, bị cáo bao gồm những cơ quan có thẩm quyền được bắt bị can, bị cáo bao gồm các cơ quan sau đây:
+ Các cơ quan điều tra là một trong những cơ quan tiến hành tố tụng có các chức năng, nhiệm vụ áp dụng mọi biện pháp do bộ luật hình sự quy định như là tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo và tiến hành điều tra tất cả các tội phạm có dấu hiệu vi phạm pháp luật xảy ra trên địa bàn quản lý hoặc theo thẩm quyền giải quyết của mình.
Các cơ quan điều tra của công an nhân dân hiện nay bao gồm các cơ quan cảnh sát điều tra thuộc bộ công an, cảnh sát điều tra công an cấp tỉnh, cấp quận, huyện, thành phố thuộc tỉnh, cơ quan an ninh điều tra của Bộ công an, cơ quan an ninh điều tra các cấp theo thẩm quyền.
Trong quân đội nhân dân có các cơ quan điều tra hình sự trực thuộc bộ quốc phòng, các cơ quan an ninh điều tra quân khu và các cấp tương đương theo quy định của pháp luật hình sự.
3. Thẩm quyền quyết định tạm giam bị can, bị cáo:
Theo quy định của pháp luật thì tạm giam có thể áp dụng đối với các bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng.
Khi các cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành bắt tạm giam bị can, bị cáo thì hình thức tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:
+ Khi các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác nhưng bị can, bị cáo vẫn tiếp tục vi phạm thì sẽ được thực hiện các biện pháp tạm giam.
+ Khi các bị can, bị cáo không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can ảnh hưởng đến việc điều tra, giải quyết vụ án hình sự;
+ Khi các cơ quan tiến hành tổ tụng có căn cứ cho rằng các bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
+ Khi các bị can, bị cáo có dấu hiệu tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
+ Khi giải quyết vụ án thì các bị can, bị cáo c hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này để gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án mà các cơ quan tố tụng đã thụ lý giải quyết.
Thẩm quyền ra quyết định tạm giam bị can bị cáo như sau:
Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam do phó thủ trưởng, thủ trưởng người đứng đầu của các cơ quan điều tra các cấp ra quyết định. Trước khi ra quyết định thì lệnh bắt phải được viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi tiến hành bắt tạm giam.
Trong giai đoạn truy tố thì thẩm quyền ra quyết định bắt bị can, bị cáo do viện phó, viện trưởng viên kiểm sát nhân dân và viện kiểm sát quân sự các cấp quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam giải quyết vụ án.
Chánh án, phó chánh án tòa án nhân dân và tòa án quân sự các cấp bao gồm thẩm phán giữ chức vụ chánh tòa, phó chánh tòa, hội đồng xét xử quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam trong giai đoạn xét xử theo quy định.
4. Điều kiện áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
Theo quy định của
1. Về đối tượng áp dụng:
Theo quy định của
2. Điều kiện áp dụng.
Như đã phân tích ở trên thì bị can, bị cáo là đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn này nhưng lại không quy định cụ thể việc bắt để tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các trường hợp nào nhưng không phải mọi bị can bị cáo đều có thể hoặc cần bắt để tạm giam mà chỉ bắt tạm giam đối với những bị can bị cáo nào nếu xét thấy cần thiết. Mục đích trong trường hợp bắt người này là để tạm giam, cho nên trước khi quyết định bắt cơ quan có thẩm quyền cần xác định có cần thiết bắt bị can, bị cáo để tạm giam hay không. Thông thường các cơ quan tiến hành tố tụng thường căn cứ vào tính chất của tội phạm bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các đặc điểm về nhân thân cũng như thái độ chấp hành pháp luật của bị can bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án. Những vấn đề này có thể được xem xét riêng rẽ trong một số trường hợp như phạm tội gây nguy hại rất lớn hay đặc biệt lớn cho xã hội. bị can, bị cáo phạm tội trong các trường hợp này thì việc bắt để tạm giam họ là rất cần thiết vì trước hết, các tội phạm trên pháp luật quy định việc xử lý rất nghiêm khắc do tính chất, mức độ nguy hiểm cao của chúng, mặt khắc phần lớn người phạm tội cũng nhận thức được trách nhiệm pháp lý mà họ phải chịu vì đã thực hiện hành vi phạm tội đó là rất nặng nề cho nên thường tìm mọi cách để trốn tránh gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án.
Tuy nhiên, nhắm đảm bảo cho việc bắt để tạm giam là hoàn toàn đúng đắn và thực sự cần thiết, các yếu tố trên thường được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chẳng hạn, có trường hợp mặc dù bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra truy tố hoặc bị tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử về tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trong nhưng nhân than xấu cũng như có căn cứ khẳng định bị can, bị cáo sẽ trốn hoặc có hành vi gây khó khăn ho công việc điều tra, truy tố, xét xử thì việc quyết định bắt để tạm giam là cần thiết đối với những trường hợp này.
Thứ nhất, biện pháp này chỉ áp dụng với bị can, bị cáo.” Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt người có quyết định khởi tố bị can hoặc người có quyết định của Tòa án đưa ra xét xử để tạm giam nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án”. () Điều đó có nghĩa là những người chưa bị khởi tố về mặt hình sự hoặc người chưa bị tòa án quyết định đưa ra xét xử thì không thể bị bắt giam.
Thứ hai, Các trường hợp bị tạm giam theo quy định tại Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự 2015 đó là:
– Đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, đây là tội gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Tội rất nghiêm trọng là tội gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là 15 năm tù. Xuất phát từ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, xâm phạm nghiêm trọng đến các mối quan hệ xã hội được luật bảo vệ, nên việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng là cần thiết cho quá trình giải quyết vụ án, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều tra truy tố, xét xử nhằm tìm ra sự thật của vụ án một cách nhanh chóng kịp thời.
– Đối với bị can, bị cáo nghiêm trọng, ít nghiêm trọng mà Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự 2015 quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Để có thể bắt bị can bị cáo để tạm giam trong trường hợp này cần có 2 điều kiện sau: Điều kiện thứ nhất bị can, bị cáo nghiêm trọng, ít nghiêm trọng nhưng có hình phạt tù trên 2 năm. Điều này có nghĩa không áp dụng biện pháp bắt tạm giam đối với các bị can, bị cáo mà Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự 2015 đã quy định hình phạt tù từ ít hơn 2 năm, ví dụ như tội giết con mới đẻ Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự 2015)… Điều kiện thứ hai có căn cứ cho rằng người đó trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Để xác định bị can, bị cáo có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể phạm tội thường căn cứ vào yêu cầu của việc điều tra, truy tố, xét xử và sự cần thiết của việc ngăn chặn tội phạm thái độ của bị can, bị cáo khi được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn biện pháp tạm giam.
Thứ ba, Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tôi, hoặc cố ý ngăn cản đến việc điều tra truy tố, xét xử hoặc bị can bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ điều kiện căn cứ cho rằng nếu không áp dụng biện pháp tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
5. Vì sao lệnh tạm giam phải được viện kiểm sát phê chuẩn?
Tóm tắt câu hỏi:
Vì sao theo quy định của luật tố tụng hình sự, lệnh tạm giam của thủ trường, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp phải được viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành? Và vì sao sang đến Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Thẩm quyền ra lệnh bắt tạm giam lại không có thẩm phán giữ chức vụ chánh tòa, phó chánh tòa tòa phúc thẩm toà án nhân dân tối cao nữa?
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Luật sư tư vấn:
Thứ nhất, lệnh tạm giam của thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra phải được viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành vì:
Tại điểm a khoản 1 Điều 113 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định như sau:
“Điều 113. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam
1. Những người sau đây có quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;”
Như vậy, lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Quy định này của Bộ luật tố tụng hình sự vẫn kế thừa Bộ luật tố tụng hình sự trước. Cả hai bộ luật tố tụng đều quy định như vậy là hoàn toàn hợp lý, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát.
Theo quy định tại khoản 1 Điều Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 quy định chức năng của Viện kiểm sát:
“1. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
Trong đó, thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Viện kiểm sát thực hành uyền công tố để đảm bảo cho mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội và không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật. Chính vì vậy, Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân 2014 tại điểm b khoản 3 Điều 3 đã quy định khi thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân có chức năng, nhiệm vụ:
“Quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra, truy tố theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.”
Tạm giam là việc cơ quan có thẩm quyền cách ly một người ra khỏi đời sống xã hội trong một khoảng thời gian nhất định, là một biện pháp hạn chế quyền bất khả xâm phạm về thân thể – quyền cơ bản của công dân được ghi nhận rõ tại Điều 20 Hiến pháp 2013. Do đó, lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam của thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp phải được viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Thứ hai, thẩm quyền ra lệnh tạm giam theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 không còn thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó chánh tòa tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao là vì:
Về thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam, khoản 1 Điều 113 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định như sau:
“Điều 113. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam
1. Những người sau đây có quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;
b) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;
c) Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.”
So với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự trước năm 2003, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 không còn quy định thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam của Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao nữa vì cơ cấu tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân đã có sự thay đổi. Theo quy định của Luật tổ chức tòa án nhân dân 2014, trong tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao không còn các Tòa phúc thẩm nữa. Trong tòa án nhân tối cao có Chánh án, các Phó Chánh án, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, công chức khác, viên chức và người lao động. Do đó trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015 không quy định thẩm quyền ra lệnh tạm giam của Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao là do các chức danh không còn.
6. Những người có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
Tóm tắt câu hỏi:
Nhờ các anh chị tư vấn trường hợp như thế này có vi phạm tố tụng không? Vi phạm điều khoản nào? Thi hành lệnh bắt bị can để tạm giam mà không có mặt điều tra viên được ủy nhiệm thi hành lệnh bắt như vậy có sai không? Mong sớm nhận được hồi âm.
Luật sư tư vấn:
1. Nội dung tư vấn:
Căn cứ Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 về bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Theo đó ,biện pháp tạm giam chỉ áp dụng đối với bị can bị cáo. Thủ tục bắt bị can bị cáo để tạm giam:
– Trước hết phải có lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam của người có thẩm quyền; lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt phải có chữ kí của người ra lệnh và có đóng dấu cơ quan. Lệnh bắt người vi phạm thủ tục như bắt người theo lệnh miệng, lệnh bắt của người không có thẩm quyền, lệnh bắt không ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh, hay không có sự ký duyệt đóng dẩu của người ra lệnh bắt thì lệnh bắt đó sẽ không có hiệu lực thi hành. Đối với trường hợp người ra lệnh bắt là Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan các cấp thì lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê duyệt trước khi thi hành.
– Người thi hành lệnh bắt phải đọc lệnh bắt và giải thích lệnh bắt, quyền và nghĩa vụ cho người bị bắt. Khi bắt phải lập biên bản bắt người. Biên bản ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản; những việc đã làm, tình hình diễn biến trong khi thi hành lệnh bắt, thái độ của người bị bắt trong việc chấp hành lệnh bắt những tài liệu, đồ vật có liên quan được phát hiện, bị tạm giữ và những yêu cầu, khiếu nại của người bị bắt. Biên bản phải được đọc cho người bị bắt và những người chứng kiến nghe. Người bị bắt, người thi hành lệnh bắt và người chứng kiến phải cùng kí tên vào biên bản. Nếu có ý kiến khác hoặc không đồng ý với nội dụng của biên bản thì họ có quyền ghi vào biên bản và kí tên.
Luật sư tư vấn pháp luật hình sự qua tổng đài:1900.6568
– Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.
– Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã.
Như vậy, việc thi hành lệnh bắt tạm giam bị can mà không có mặt Điều tra viên ủy nhiệm thi hành lệnh bắt nhưng không vi phạm các thủ tục bắt bị can để tạm giam quy định ở Điều 113 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 thì không vi phạm thủ tục tố tụng.