Hiện nay, số lượng tội phạm trên cả nước được có dấu hiệu giảm. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại những mặt tiêu cực, đặc biệt là các tội liên quan đến tài sản vẫn có dấu hiệu gia tăng. Vậy, công nhiên là gì? Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản theo Bộ luật hình sự?
Mục lục bài viết
1. Công nhiên là gì?
Công nhiên được hiểu là một hành vi công khai thực hiện một hành động nào đó trước mặt người khác mà không hề che giấu hay lén lút. Hiện nay theo quy định của bộ luật hình sự thì đã có quy định cho tội công khai chiếm đoạt tài sản. Theo đó, công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi công khai lấy tài sản trước sự chứng kiến của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài mà không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực hoặc bất cứ một thủ đoạn nào nhằm uy hiếp tinh thần của người quản lý tài sản. Thông thường người phạm tội lợi dụng sự vướng mắc của người quản lý tài sản để lấy tài sản trước mắt họ mà không làm gì được.
2. Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản theo Bộ luật hình sự:
Khác với những tội danh khác thì tội công nhiên chiếm đoạt tài sản có đặc điểm nổi bật là thực hiện hành vi một cách công khai, công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác mà họ không thể làm gì khác để ngăn cản hành vi phạm tội này hoặc nếu có thì biện pháp đó cũng không thể đem lại hiệu quả để ngăn cản hành vi phạm tội.
Tính chất công khai, trắng trợn của hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản thể hiện ở chỗ người phạm tội không giấu diếm hành vi phạm tội của mình, trước, trong hoặc ngay sau khi bị mất tài sản người bị hại biết ngay người lấy tài sản của mình (biết mà không thể giữ được). Cụ thể, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định như sau:
“Điều 172. Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
1. Người nào công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 173, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
b) Hành hung để tẩu thoát;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Chiếm đoạt tài sản là hàng cứu trợ;
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.”
Như vậy, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được thể hiện dưới nhiều hành vi và bản chất khác nhau. Thông thường người thực hiện hành vi phạm tội thực hiện hành vi khi bắt được người bị hại không dám hoặc khả năng cao là không thể làm được gì nếu bị phát hiện. Và các yếu tố cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
Chủ thể của tội phạm
Hiện nay, việc thực hiện hành vi phạm tội có nhiều chủ thể khác nhau, tuy nhiên theo quy định của Bộ luật hình sự thì chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự là những chủ thể có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có khả năng và có nhận thức. Theo đó, tại điều 12 Bộ luật hình sự về tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, chủ thể của tội phạm là người trên 16 tuổi. Chính vì vậy, khi xác định hành vi phạm tội thì các cơ quan chức năng có thẩm quyền chỉ xác định hành vi phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên, những trường hợp khác thì tùy theo mức độ mà có mức xử lý phù hợp hơn như cải tạo, đưa vào trại giáo dưỡng…
Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm đối với hành vi này chính là hành vi này xâm phạm đến mối quan hệ sở hữu giữa tài sản và người chủ sở hữu, không xâm phạm đến những mối quan hệ khác được pháp luật bảo vệ. Tại điều luật này, pháp luật nước ta chỉ quy định cụ thể hành vi mức độ phạm tội được xem xét dựa trên số tiền, mức độ nguy hiểm cho xã hội, hoàn cảnh nhưng không hề quy định có liên quan đến tính mạng, sức khỏe người khác.Chính đặc điểm này đã tạo nên sự khác biệt giữa tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và những tội danh khác như tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản. Vì vậy, nếu sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội cố gắng chạy thoát hay bị đuổi bắt mà có hành vi vi phạm khác như giết người, cố ý gây thương tích cho người khác thì tùy theo mức độ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm được thể hiện dưới nhiều yếu tố khác nhau như hành vi, động cơ, hậu quả…
– Hành vi phạm tội: Cũng giống như những tội danh khác, hành vi phạm tội được thể hiện chính là hành động chiếm đoạt tài sản của người khác một cách công khai, không cần phải che giấu hành vi phạm tội trước mặt người đó, hành vi “chiếm đoạt” chính alf mặt khách quan duy nhất của tội danh này, chiếm đoạt tài sản nhưng không có dấu hiệu lén lút, sợ hãi. Người phạm tội chỉ thực hiện hành vi khi lợi dụng sự sơ hở, chủ quan của người khác trong quá trình quản lý tài sản hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khách quan khác như: thiên tai, hoả hoạn, chiến tranh… Những hoàn cảnh này thường kéo dài và diễn ra một cách bất ngờ, khiến họ không thể có đủ khả năng để có thể bảo vệ tốt tài sản của mình, chỉ có thể đứng nhìn người khác lấy tài sản đi một cách hiên ngang, công khai.
Nhìn vào chúng ta có thể thấy được bản chất của hành vi chính là hành động công khai chiếm đoạt tài sản, đây cũng chính là dấu hiệu chủ yếu để phân biệt được công nhiên chiếm đoạt tài sản và trộm cướp tài sản. Việc công nhiên có thể thực hiện đối với chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản đó. Ví dụ: A tranh thủ lúc mọi người trong gia đình B duy chuyển lên thuyền để tránh nước ngập để lấy đi cái tivi, thì đây chính là hành vi công nhiên, trước mặt chủ sở hữu lấy đi tài sản, một hành vi trắng trợ để cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
– Hậu quả và mối quan hệ nhân quả: Hậu quả của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Nhiều tài sản có giá trị lớn bị người phạm tội ngang nhiên lấy đi, dẫn đến nhiều hậu quả.
Đối với những trường hợp người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc rất lớn như ôtô, xe máy, máy tính xách tay, đồng hồ đắt tiền hoặc tài sản khác có giá trị hàng chục triệu đồng trở lên, thì dù người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản vẫn bị coi là phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, là phạm tội trong trường hợp phạm tội chưa đạt hoặc chuẩn bị phạm tội tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà cơ quan chức năng có mức xử phạt hợp lý.
Mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội thực hiện hành vi này với lỗi cố ý. Theo quan sát thì chúng ta dễ dàng nhận được rằng người phạm tội đang thực hiện hành vi với ý chí chủ quan, cố ý thực hiện hành vi một cách công khai, không hề lén lút.
3. So sánh tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và tội cướp giật tài sản:
trên thực tế hai tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và tội cướp giật tài sản rất dễ khiến người đọc nhầm lẫn vì hành vi và tính chất, dưới đây là những điểm giống và khác nhau:
Thứ nhất, điểm giống nhau giữa tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và tội cướp giật tài sản
Nhìn chung cả hai tội danh này nhằm đến là lấy tài sản của người khác một cách trái pháp luật. Cụ thể:
- Khách thể của tội phạm: Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và tội cướp giật tài sản đều xâm phạm những tài sản không thuộc quyền quản lý của mình, những tài sản này được quản lý hoặc được sử dụng.
- Mặt khách quan của tội phạm:
+ Hành vi khách quan: Cả hai tội này đều có hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác một cách công khai, không hề lén lút. Người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ngay trước mắt chủ sở hữu hoặc người đang trực tiếp quản lý tài sản trong hoàn cảnh họ đang không thể quản lý tốt tài sản của mình, người phạm tội không có ý định che giấu hành vi phạm tội của mình
+ Hậu quả: Cả hai tội phạm này đều gây thiệt hại về tài sản của người khác.
- Chủ quan và chủ thể: Người phạm tội thực hiện hành vi với hành vi cố ý thực hiện một cách công khai và mong muốn hậu quả xảy ra. Chủ thể thực hiện hành vi chính là những đối tượng có đủ năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có khả năng là chủ hành vi và chịu trách nhiệm hình sự.
Thứ hai là, điểm khác nhau giữa tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và tội cướp giật tài sản
Một, hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản người khác là hành vi mà người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản người khác công khai, công nhiên
+ Hành vi công khai chiếm đoạt tài sản của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản phân biệt với hành vi của tội cướp giật tài sản ở chỗ người phạm tội lợi dụng việc chủ sở hữu, người quản lý tài sản không thể bảo quản tốt tài sản của mình trong hoàn cảnh bất khả thi như ngập lụt, bão, bị tật nguyền, không thể duy chuyển được… Do vậy, người phạm tội không cần và không có ý định có bất cứ thủ đoạn nào khác để đối phó với chủ tài sản, người phạm tội như có hành vi sử dụng phương tiện, công cụ để đe dọa, cưỡng ép hay đe dọa bằng tinh thần để chiếm đoạt tài sản nhanh chóng và tẩu thoát. không dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực hay uy hiếp tinh thần nhanh chóng hay nhanh chóng chiếm đoạt và lẩn tránh.
+ Chủ thể của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên. Khác với tội cướp giật tài sản thì chỉ có người từ 16 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi của mình. Còn người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không thể trở thành chủ thể của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản kể cả trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.
+ Hình phạt: Cũng như tội cướp giật tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản cũng có 4 khung hình phạt, tuy nhiên mức phạt ở các khung giữa hai tội này là khác nhau. Các khung hình phạt của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản như sau: Khung 1: phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm; khung 2: phạt tù từ 02 năm đến 07 năm; khung 3: phạt tù từ 07 năm đến 15 năm; khung 4: phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
Hai, đối với tội cướp giật tài sản
– Về tội cướp giật tài sản là hành vi thực hiện chiếm đoạt tài sản người khác nhanh chóng, diễn ra một cách bất ngờ khiến cho người đang nắm giữ tài sản không thể phản ứng kịp thời, để có thể phản kháng lại hành vi cướp giật tài sản. Hoàn cảnh để đối tượng thực hiện hành vi là lợi dụng sự sơ hở, chủ quan của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản để nhanh chóng thực hiện hành vi. Chính vì vậy, hậu quả xảy ra thường gây ảnh hưởng trực tiếp đên tài sản
+ Chủ thể của tội cướp giật tài sản có thể là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi nếu người phạm tội thuộc Khoản 2, 3, 4 Điều 171 Bộ luật Hình sự (trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng).
+ Hình phạt: Tội cướp giật tài sản có 4 khung hình phạt tương ứng với 04 khoản như sau: Khung 1: phạt tù từ 01 năm đến 05 năm; khung 2: phạt tù từ 03 năm đến 10 năm; khung 3: phạt tù từ 07 năm đến 15 năm; khung 4: phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
Căn cứ pháp lý sử dụng trong bài viết:
–