Trong nền kinh tế phát triển ngày nay, hoạt động kinh doanh, buôn bán diễn ra rất sôi nổi. Tuy nhiên, có rất nhiều người vì mục đích lợi nhuận mà không quan tâm đến chất lượng sản phẩm hay có những hành vi gian lận, lừa dối khách hàng. Lừa dối khách hàng là gì? Hình phạt tội lừa dối khách hàng?
Mục lục bài viết
1. Lừa dối khách hàng là gì?
Khách hàng là gì?
Trong mối quan hệ mua bán thì có hai dạng chủ thể là chủ thể bán (bên bán) và chủ thể mua (bên mua). Bên mua trong quan hệ mua bán hàng hóa chính là khách hàng.
Trong một số trường hợp, khái niệm “khách hàng” còn được hiểu khái niệm “người tiêu dùng”. Theo Khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 thì “người tiêu dùng” được định nghĩa
“1. Là người mua , sử dụng hàng hóa , dịch vụ cho mục đích sinh hoạt, tiêu dùng cho cá nhân, gia đình, tổ chức… ”
Như vậy, khách hàng hay người tiêu dùng đều có thể là bên mua trong hoạt động mua bán hàng hóa, đều thừa hưởng giá trị từ hàng hóa, tuy nhiên, mục đích mua bán của họ khác nhau trong những trường hợp cụ thể.
Lừa dối là gì?
“Lừa dối” là động từ thể hiện hành vi làm sai sự thật , lệch lạc so với chuẩn mực đã được thừa nhận và quy ước để người khác tin là thật nhằm mục đích nào đó . Trong hoạt động mua bán hàng hóa , cung cấp dịch vụ , thủ đoạn lừa dối thể hiện bằng những hành vi như cân, đo, đong, đếm, tính gian lận so với lượng hàng hóa , hoặc số tiền thực tế, cung cấp sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có chất lượng kém; đánh tráo hàng hóa, thay đổi thiết kế, chức năng của các thiết bị cân, đo, đong, đếm, tính …
Lừa dối khách hàng là gì?
Lừa dối khách hàng tức là việc lừa dối người mua trong quan hệ mua bán. Bản chất của hành vi lừa dối trong quan hệ mua bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ là người bán sử dụng mánh lới, lợi dụng sự thiếu hiểu biết hay lơ là của khách hàng làm thay đổi định lượng, chất lượng hàng hóa để giao cho khách hàng nhằm thu lợi bất chính. Và thực tế khách hàng nhận được hàng hóa , dịch vụ có giá trị thấp hơn so với giá trị số tiền mình bỏ ra.
2. Tội lừa dối khách hàng là gì?
Hành vi lừa dối khách hàng đã được xác định là một loại tội phạm từ thời đại phong kiến, tuy nhiên trong thời gian này không có một quy định cụ thể. Tại Bộ luật Hình sự đã quy định rõ ràng về tội lừa đối khách hàng. Từ những phân tích trên, có thể hiệu : Tội lừa dối khách hàng là hành vi cân, đo, đong, đếm, tinh gian hoặc thủ đoạn gian dối khác của người bán trong hoạt động mua bán hàng hóa , cung cấp dịch vụ nhằm thu lợi bất chính .
Đặc Điểm của tội lừa dối khách hàng
Thứ nhất, tội lừa dối khách hàng chỉ xảy ra trong quan hệ mua bán hàng hóa, tội phạm trước tiên xâm hại đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước, cụ thể là quan hệ đúng đắn trong lưu thông hàng hóa. Tội phạm cũng đồng thời xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng – người mua trong quan hệ mua bán thông qua việc trao hàng hóa không tương ứng với giá trị mà người mua phải trả.
Thứ hai , tội lừa dối khách hàng được đặc trưng bởi hành vi lừa dối, hành vi lừa dối này làm cho khách hàng tin là sự thật mà đưa tiền. Tính chất lừa dối thể hiện ở thủ đoạn gian dối trong thao tác mua bán hàng hóa như cân, đo, đong, đếm, tính hoặc thủ đoạn gian dối khác như đánh tráo hàng hóa, bán hàng hóa kém chất lượng, bán hàng hóa với giá cao hơn giá quy định …. Hậu quả của tội lừa dối khách hàng cũng mang đặc Điểm riêng biệt là tính nhỏ lẻ và khả năng nhận diện chậm.
Thứ ba , tội lừa dối khách hàng được thực hiện bởi chủ thể đặc biệt, ngoài việc thỏa mãn những điều kiện chung về chủ thể của tội phạm như tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự thì tội lừa dối khách hàng đòi hỏi chủ thể của tội phạm phải có dấu hiệu là người bán trong quan hệ mua bán hàng hóa. Người bán trong quan hệ mua bán hàng hóa không nhất thiết chỉ là người sở hữu đối với loại hàng hóa đó mà còn mở rộng ra là bất kì người nào thực hiện hành vi chuyển dịch quyền sở hữu đối với hàng hóa cho người mua , có thể là nhân viên phụ trách bán hàng , hay các cá nhân thực hiện hoạt động kinh doanh, buôn bán…
Thứ tư, tội lừa dối khách hàng được thực hiện bởi lỗi cố ý trực tiếp, tức là người phạm tội nhận thức rõ về giá cả , số lượng, chất lượng hàng hóa của mình, nhưng bằng thủ đoạn gian dối làm cho khách hàng không biết mà mua hàng hóa kém chất lượng, không đủ về số lượng, giá cao hơn so với mức tiêu chuẩn và trên thực tế đã thực hiện hành vi phạm tội. Người phạm tội thực hiện hành vi với động cơ vụ lợi , mục đích nhằm hưởng giá trị chênh lệch thu được khi thực hiện thủ đoạn gian dối.
3. Tội lừa dối khách hàng theo quy định của Bộ luật Hình sự:
Trong
“1. Người nào trong việc mua, bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ mà cân, đong, đo, đếm, tính gian hàng hóa, dịch vụ hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
b) Thu lợi bất chính từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
d) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Về mặt khách quan của tội lừa dối khách hàng
Hành vi khách quan của tội lừa dối khách hàng được mô tả trong cấu thành tội phạm cơ bản ( Khoản 1 Điều 198
Những hành vi cấu thành tội phạm này nếu thỏa mãn các điều kiện quy định tại Điểm a , Điểm b Khoản 1 Điều 198 Bộ luật hình sự 2015, đó là người thực hiện hành vi nêu trên đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; hay người thực hiện hành vi đã thu lợi bất chính từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng.
Như vậy có thể thấy hành vi khách quan của tội lừa dối khách hàng bao gồm hai nhóm hành vi đó là nhóm hành vi cân, đong, đo, đếm, tính gian và nhóm hành vi với thủ đoạn gian dối khác. Đối với nhóm hành vi thứ nhất: cân, đo, đong, đếm, tính là những thuật ngữ cơ bản trong khoa học đo lường, đó là các hành vi của con người nhằm xác định, đánh giá định lượng của một đối tượng vật lý nhất định, trong trường hợp này đối tượng vật lý chính là hàng hóa và dịch vụ. Đây là nhóm hành vi phổ biến rộng rãi trong đời sống xã hội, nhất là trong quan hệ mua bán, việc xác định định lượng hàng hóa là điều kiện tiên quyết để đạt được mục đích trao đổi. Mọi hành vi làm sai lệch sự thật trong việc xác định định lượng này đều bị pháp luật cấm, đến mức nguy hiểm nhất định thì có thể bị xử lý về mặt hình sự. Đối với nhóm hành vi thứ hai được pháp luật quy định mang tính dự liệu , đó là các hành vi mà dùng thủ đoạn gian dối khác , ví dụ như hành vi đánh tráo hàng hóa, bán hàng hoặc cung cấp dịch vụ kém chất lượng, đẩy giá thành cao hơn so với quy định, thay đổi thiết kế hoặc gắn thiết bị điện tử vào các thiết bị cân, đo, đong, đếm, tính để gian lận ….
Hậu quả của hành vi được cụ thể hóa bằng mô tả mang tính định lượng “ Thu lợi bất chính từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng ” trong cấu thành cơ bản , “ Thu lợi bất chính từ 5.000.000 đồng trở lên ” ở cấu thành tăng nặng . Do vậy , tội lừa dối khách hàng là loại tội có cấu thành vật chất .
Về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm: Tội lừa dối khách hàng đã mô tả cụ thể hành vi khách quan và hậu quả của hành vi trong cấu thành cơ bản, cấu thành tăng nặng, người bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này phải là người thu lợi bất chính được số tiền điều luật quy định và nó là kết quả trực tiếp của việc thực hiện hành vị cân, đo, đong, đếm,… hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác .
Chủ thể của tội lừa dối khách hàng
Chủ thể của tội lừa dối khách hàng chỉ có thể là cá nhân. Pháp nhân thương mại không là chủ thể của tội lừa dối khách hàng theo Điều 76 Bộ luật Hình sự.
Mặt chủ quan của tội lừa dối khách hàng
Lỗi trong tội lừa dối khách hàng là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội có đủ điều kiện để lựa chọn cách xử sự với đạo đức xã hội, phù hợp với pháp luật nhưng họ đã lựa chọn cách xử sự ngược lại bằng thực hiện hành vi gian dối nhằm mục đích thu lợi bất chính.
Bên cạnh đó, người phạm tội nhận thức được hành vi của mình có thể gây nguy hiểm cho xã hội và thấy trước được hậu quả của hành vi đó chính là gây thiệt hại đến quyền lợi của khách hàng, nhưng họ vẫn mong muốn hậu quả đó được xảy ra để họ có thể thu lợi nhuận.
4. Hình phạt và dấu hiệu định khung hình phạt tội lừa dối khách hàng:
– Khung cơ bản của tội lừa dối khách hàng đó chính là có thể bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm khi phạm tội thông thường, không có tình tiết định khung tăng nặng, hành vi đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc thu lợi bất chính từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng.
– Khung tăng nặng của tội lừa dối khách hàng có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung hình phạt này được áp dụng với hành vi lừa dối khách hàng có tổ chức hoặc có tính chất chuyên nghiệp hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt hoặc thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên.
– Hình phạt bổ sung như phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết:
– Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
– Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010.