Luật Cạnh tranh là một chuyên ngành luật còn khá mới mẻ so với các ngành luật truyền thống khác như luật dân sự, hình sự... Vậy luật cạnh tranh là gì? Đối tượng điều chỉnh và phạm vi áp dụng của ngành luật này có gì giống và khác so với các ngành luật truyền thống hiện hữu lâu đời?
Mục lục bài viết
1. Luật cạnh tranh là gì?
Trên thế giới, Ca-na-đa là quốc gia đầu tiên ban hành
Thuật ngữ ‘‘luật cạnh tranh’’ được biết đến ở Việt Nam chỉ vào khoảng trên dưới chục năm trở lại đây nhờ quá trình giao lưu, hội nhập kinh tế quốc tế. Các công trình nghiên cứu về luật cạnh tranh ở nước ta có thể nói là còn khá hạn chế so với nhiều chuyên ngành luật khác, chủ yếu mới dừng lại ở việc đề cập đến sự cần thiết ban hành luật cạnh tranh hoặc phân tích một vài chế định hay khía cạnh cơ bản của luật cạnh tranh. Các tài liệu tham khảo pháp luật cạnh tranh của nước ngoài có mặt ở Việt Nam có thể nói là cũng còn rất hiếm hoi.
Trong điều kiện đó, các nhà nghiên cứu quan tâm đến lĩnh vực cạnh tranh không có nhiều cơ hội để kế thừa. Về mặt luật thực định, Việt Nam mới đang đi những bước đầu tiên trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về cạnh tranh. Dự thảo Luật Cạnh tranh do Bộ Thương mại chủ trì đã được bắt tay soạn thảo từ năm 2000, được trình ra Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp tháng 5/2004 và sẽ được xem xét, thông qua vào năm 2005.
Với bài viết này, chúng tôi mong muốn bước đầu góp phần giải quyết một số vấn đề lý luận cơ bản của luật cạnh tranh như khái niệm, phạm vi điều chỉnh, các nguyên tắc cơ bản, đặc điểm và vị trí của luật cạnh tranh trong hệ thống pháp luật, nhằm phục vụ cho việc nhận thức cũng như việc xây dựng đạo luật quan trọng này.
Theo từ điển Cornu của Pháp, thì cạnh tranh được hiểu là: ‘‘Chạy đua trong kinh tế; hành vi của các doanh nghiệp độc lập với nhau và là đối thủ của nhau cung ứng hàng hóa, dịch vụ, nhằm làm thỏa mãn nhu cầu giống nhau, với sự may rủi của mỗi bên, thể hiện qua việc lôi kéo được hoặc để bị mất đi một lượng khách hàng thường xuyên’’
‘‘Chạy đua, trên một thị trường mà cấu trúc và sự vận hành đáp ứng các điều kiện của quy luật cung cầu của một bên là các nhà cung cấp với bên kia là những người sử dụng hoặc tiêu dùng hàng hóa hoặc dịch vụ được tự do tiếp cận và các quyết định kinh doanh không phải là hệ quả của áp lực hoặc những ưu đãi do pháp luật mang lại’’.
Theo cố giáo sư Y. SERRA thì luật cạnh tranh là ‘‘tổng hợp các quy phạm pháp luật áp dụng đối với các tác nhân kinh tế trong hoạt động cạnh tranh nhằm đảm bảo cho cạnh tranh diễn ra một cách hợp lý, tức là không thái quá’’.
Pháp luật cạnh tranh trong tiếng Anh được gọi là Competition law.
Pháp luật cạnh tranh nếu được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh, pháp luật chống hạn chế cạnh tranh, những qui định điều chỉnh hoạt động tố tụng cạnh tranh và tất cả các qui phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động cạnh tranh trong các văn bản pháp luật có liên quan.
Theo nghĩa hẹp, pháp luật cạnh tranh là một đạo luật và những văn bản hướng dẫn thi hành điều chỉnh hoạt động cạnh tranh nhằm bảo vệ tư do cạnh tranh, cơ cấu thị trường cũng như môi trường cạnh tranh bình đẳng và công bằng.
2. Đối tượng điều chỉnh của Luật Cạnh tranh:
Về nguyên tắc, đối tượng điều chỉnh của luật cạnh tranh là các chủ thể tiến hành các hoạt động kinh tế, theo đuổi mục đích lợi nhuận. Trên thực tế, đó chủ yếu là các doanh nghiệp. Cần phải nhấn mạnh rằng khái niệm doanh nghiệp trong luật cạnh tranh rất đặc biệt, nó khác với những gì chúng ta đã biết đến trong
Đối tượng điều chỉnh của luật cạnh tranh còn có thể là các nhóm doanh nghiệp liên kết với nhau dưới hình thức hiệp hội doanh nghiệp, các nghiệp đoàn…
Khi xác định phạm vi đối tượng áp dụng của luật cạnh tranh vấn đề đặt ra là luật cạnh tranh có áp dụng đối với các pháp nhân công quyền hay không, nếu có thì ở mức độ nào? Hoa Kỳ, các nước EU và Nhật Bản từ lâu đã thừa nhận nguyên tắc luật cạnh tranh được áp dụng đối với các pháp nhân công (các doanh nghiệp nhà nước, các cơ quan nhà nước). Trước hết, đối với các doanh nghiệp nhà nước, kể cả các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước thì xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng giữa các doanh nghiệp nên các chủ thể này hoàn toàn có thể là đối tượng áp dụng của luật cạnh tranh, đặc biệt trong trường hợp khai thác một cách lạm dụng vị trí ưu đãi do pháp luật mang lại.
Tuy nhiên đối với các pháp nhân công mà không phải là các doanh nghiệp, tức là các cơ quan nhà nước thì sao? Toà án Tư pháp phúc thẩm của Liên minh Châu Âu đã bày tỏ khá rõ ràng quan điểm về vấn đề này khi khẳng định rằng ‘‘một thực thể, như một cơ quan công quyền cũng có thể bị coi là một doanh nghiệp nhằm mục đích áp dụng các quy phạm của luật cạnh tranh’’. Tuy nhiên, trong trường hợp các cơ quan này ra các quyết định tổ chức dịch vụ công cộng hoặc lựa chọn đối tác ký hợp đồng chẳng hạn thì án lệ của Pháp cho rằng đây là các quyết định hành chính thuần túy và không thuộc phạm vi áp dụng của luật cạnh tranh.
3. Phạm vi áp dụng của Luật Cạnh tranh:
*) Phạm vi áp dụng ‘‘vật chất’’.
Thuật ngữ phạm vi áp dụng ‘‘vật chất’’ ở đây được chúng tôi sử dụng một cách ước lệ, với hàm ý dùng để chỉ giới hạn, phạm vi các quan hệ xã hội mà luật cạnh tranh điều tiết.
Nhìn chung trên thế giới, luật cạnh tranh được áp dụng đối với mọi hoạt động từ sản xuất, phân phối đến tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ. Luật cạnh tranh điều chỉnh bất kỳ chu trình nào của quá trình kinh doanh nhằm bảo vệ thị trường, bảo vệ các doanh nghiệp và bảo vệ người tiêu dùng. Như trên đã phân tích, về nguyên tắc, các hoạt động không mang tính chất ‘‘kinh tế’’ hay các hoạt động hành chính của các cơ quan công quyền tự nó loại khỏi phạm vi áp dụng của luật cạnh tranh. Tuy nhiên, trên thực tế, sự phân biệt này chỉ mang tính tương đối, vì nhiều hoạt động không mang tính lợi nhuận như y tế, thể thao, bảo hiểm, hoạt động của các hiệp hội…vẫn thuộc đối tượng áp dụng của luật cạnh tranh.
*) Phạm vi áp dụng theo lãnh thổ.
Các nước đều coi luật cạnh tranh là luật ‘‘trật tự kinh tế công cộng’’ và giới hạn phạm vi áp dụng của luật cạnh tranh theo nguyên tắc luật cạnh tranh chỉ áp dụng đối với các hành vi được thực hiện và gây tác động đến thị trường trên lãnh thổ của quốc gia đó. Như vậy, các hoạt động liên quan đến xuất khẩu sẽ không thuộc phạm vi áp dụng của luật cạnh tranh, vì nó tác động đến thị trường của nước ngoài. Ngay cả thông lệ tư pháp quốc tế cũng cho rằng khi có xung đột pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh thì áp dụng hệ thuộc luật của nước nơi mà thị trường bị tác động bởi hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
*) Phạm vi áp dụng xét theo ‘‘ngưỡng’’.
Không phải hành vi vi phạm nào cũng cần thiết phải bị xử lý bằng pháp luật mà chỉ khi nào nó đạt đến một ‘‘ngưỡng’’ nhất định thì mới bị xử lý. Đây chính là sự thể hiện nguyên tắc ‘‘tính hợp lý’’ trong luật cạnh tranh. Ngưỡng trong luật cạnh tranh thường được xác định thông qua các tiêu chí kinh tế như doanh thu, thị phần, thị phần kết hợp…Khi không có quy phạm cụ thể về ‘‘ngưỡng’’ thì các chủ thể áp dụng luật cạnh tranh (cơ quan quản lý cạnh tranh, Toà án…) phải tự xác định ngưỡng áp dụng. Đây là công việc không đơn giản, đòi hỏi phải sử dụng thao tác phân tích kinh tế thì mới có thể giải quyết được vấn đề phát sinh.
4. Đặc điểm của pháp luật cạnh tranh:
– Pháp luật cạnh tranh là một bộ phận của pháp luật điều tiết thị trường nên nó được xây dựng hết sức mềm dẻo để thích ứng với việc điều chỉnh các hành vi cạnh tranh rất đa dạng trên thị trường.
– Do có nhiệm vụ là điều tiết thị trường, điều tiết nền kinh tế, cho nên pháp luật cạnh tranh có mối liên hệ chặt chẽ với kinh tế và phải phù hợp với các chuẩn mực kinh tế. Các qui định pháp luật có liên quan chặt chẽ đến học thuật, kiến thức của kinh tế.
Do đó, khi áp dụng các qui phạm pháp luật cạnh tranh vào các trường hợp cụ thể, về cơ bản người ta thường sử dụng phương pháp tiếp cận dưới giác độ kinh tế.
– Pháp luật cạnh tranh mang đặc điểm của cả luật công lẫn luật tư, nó nội hàm những vấn đề liên quan đến kinh tế của nhiều lĩnh vực pháp luật quan trọng như: dân sự, thương mại, hành chính…
Vì vậy, pháp luật cạnh tranh không có chế tài riêng, khi áp dụng người ta phải sử dụng chế tài của một số lĩnh vực pháp luật khác, đó có thể là chế tài dân sự hoặc chế tài hành chính.
– Khác với các lĩnh vực pháp luật khác, ngoài các qui định về nội dung điều chỉnh hoạt động cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh còn có các qui định điều chỉnh hoạt động tố tụng cạnh tranh.
Một cách tổng quát có thể hiểu pháp luật cạnh tranh là tổng hợp các qui phạm pháp luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh giữa các chủ thể cạnh tranh trên thị trường và hoạt động tố tụng cạnh tranh.
Kết luận: Pháp luật cạnh tranh là tổng hợp các qui phạm pháp luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh giữa các chủ thể cạnh tranh trên thị trường và hoạt động tố tụng cạnh tranh. Do là ngành luật khá mới nên việc điều chỉnh chưa bao quát được hết các nội dung và điều chỉnh phù hợp trong quá trình vận động là điều không thể tránh khỏi, nên việc áp dụng giữa quy định pháp luật với thực tế còn nhiều khập khiễng, bất cập.