Khi bàn luận về nền kinh thế chúng ta không thể nhắc tới nến kinh tế quốc dân. Vậy định nghĩa về nền kinh tế, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế của quốc dân, nền kinh tế được hiểu như thế nào? Sau đây, mời quý vị tham khảo bài viết dưới đây để hiểu rõ về các vấn đề liên quan đến kinh tế quốc dân.
Mục lục bài viết
1. Nền kinh tế quốc dân là gì?
Nền kinh tế quốc dân là cụm từ dùng để chỉ về sự phát triển trong một quốc gia nào đó cụ thể, có nhiều yếu tố để thúc đẩy nền kinh tế quốc dân được phát triển như công nghiệp hóa hiện đại hóa, kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước, kinh tế hỗn hợp,…
Nền kinh tế quốc dân là tổng thể các mối quan hệ kinh tế, ngành kinh tế cấu tạo nên nền kinh tế của một quốc gia trong đó các ngành, các lĩnh vực kinh tế liên kết với nhau bởi sự phân công lao động xã hội và sự trao đổi, lưu thông có tính chất tất yếu với nhau.
2. Cấu thành của nền kinh tế quốc dân:
Một nền kinh tế quốc dân được tạo nên bởi cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu lãnh thổ.
Cơ cấu ngành kinh tế là tổng thể các nhóm ngành kinh tế được hình thành trong nền kinh tế.
Hiện nay cơ cấu ngành kinh tế được phân thành ba nhóm ngành chính : nông -lâm- ngư nghiệp; công nghiệp – xây dựng; dịch vụ.
Việt Nam đang trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Hiện nay tỷ trọng GDP ngành nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng khá cao trong cơ cấu GDP của Việt Nam. Trong quá trình chuyển đổi cơ cấu từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp hiện nay, Việt Nam đang có nhiều chính sách khuyến khích doanh nghiệp áp dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp, khuyến khích các doanh nghiệp công nghệ cao, nghiên cứu khoa học công nghệ.
Cơ cấu thành phần kinh tế: Đây là thành phần kinh tế được hình thành từ chế độ sở hữu được Nhà nước thừa nhận.
Trước đây khi chưa bước vào thời kỳ đổi mới năm 1986, Việt Nam chỉ thừa nhận thành phần kinh tế Nhà nước, mọi thứ đều thuộc về sở hữu của Nhà nước, Nhà nước tiến hành phân phối sản lượng hàng hoá trên toàn lãnh thổ Việt Nam qua chế độ tem phiếu. Kể từ khi tiến hành cải cách mở cửa, hình thức sở hữu tư nhân đã được thừa nhận, thương nhân bắt đầu hình thành, tài sản thuộc sở hữu cá nhân đã được công nhận, hộ gia đình sản xuất có dư sản lượng có thể đem đi trao đổi lấy hàng hoá khác. Giao thương bắt đầu hình thành. Thương nhân nước ngoài đến Việt Nam buôn bán, mở cửa hàng, quán …. đã hình thành nên thành phần kinh tế quốc ngoại ( có vốn đầu tư nước ngoài).
Cơ cấu lãnh thổ: đây là việc phân bổ nền kinh tế theo ranh giới lãnh thổ. Cụ thể được phân chia thành toàn cầu, khu vực, quốc gia, vùng. Nền kinh tế toàn cầu, nền kinh tế khu vực châu Á – Thái Bình Dương, nền kinh tế Việt Nam, nền kinh tế Lào, … Đó là những cụm từ chúng ta được nghe rất nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng, bài báo tạp chí kinh tế. Cơ cấu lãnh thổ có mối quan hệ chặt chẽ với cơ cấu ngành. Cơ cấu lãnh thổ có thể góp phần hình thành cơ cấu ngành do yếu tố địa lý của vùng lãnh thổ, điều kiện tự nhiên của vùng lãnh thổ sẽ ảnh hưởng đến phát triển ngành kinh tế. Ngược lại việc liên thông giữa các ngành kinh tế có thể giúp hình thành vùng lãnh thổ. Điều này đã được chứng minh trong lịch sử, nhờ quá trình di dân của thương nhân rồi tập hợp tại một nơi tụ tập hình thành nơi họp chợ đã dần dần hình thành ấp, làng, lớn dần tạo thành xã, phường, huyện, tỉnh, thành phố.
Nền kinh tế quốc dân tiếng Anh là National Economy.
Nền kinh tế (economy) là khái niệm dùng để chỉ tất cả các hoạt động kinh tế của một nước, để đánh giá quy mô của một nền kinh tế, người ta thường dùng đại lượng có tên là tổng sản phẩm trong nước, viết tắt là GDP. Đại lượng này cho biết giá trị thị trường của tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối cuối cùng được sản xuất ra trong một nước trong thời kỳ nhất định.
Người ta có thể tính toán phần đóng góp của các bộ phận cấu thành nền kinh tế vào GDP theo nhiều cách khác nhau, ví dụ dựa trên khu vực lớn (khu vực cá nhân hay hộ gia đình, khu vực doanh nghiệp hay công ty, khu vực tài chính, khu vực công cộng hay chính phủ, khu vực nước ngoài ) hoặc dựa trên các ngành sản xuất.
(Tài liệu tham khảo: Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân)
3. Phân loại một số mô hình kinh tế:
Nền kinh tế thị trường cho phép hàng hóa tự do lưu hành trong thị trường, theo cung và cầu. Loại hình kinh tế này có xu hướng tự cân bằng theo tự nhiên. Khi giá trong một ngành cho một ngành công nghiệp tăng do nhu cầu, tiền bạc và lao động cần thiết để lấp đầy nhu cầu đó sẽ tự động chảy đến những nơi cần chúng.
Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung phụ thuộc vào một tác nhân chính trị trung ương, điều khiển giá và phân phối hàng hóa. Cung và cầu không thể diễn ra tự nhiên trong hệ thống này vì nó được lên kế hoạch tập trung, do đó sự mất cân đối là thường xuyên xảy ra.
Nền kinh tế xanh phụ thuộc vào các dạng năng lượng tái tạo, bền vững. Các hệ thống này hoạt động với mục tiêu cuối cùng là cắt giảm lượng khí thải carbon, khôi phục đa dạng sinh học, dựa vào các nguồn năng lượng thay thế và nói chung là có mục đích bảo tồn môi trường.
Nghiên cứu về kinh tế và các yếu tố ảnh hưởng đến nền kinh tế được gọi là kinh tế học. Kinh tế có thể được chia thành hai lĩnh vực trọng tâm, kinh tế học vi mô và kinh tế vĩ mô. Kinh tế vi mô nghiên cứu hành vi của các cá nhân và công ty để hiểu tại sao họ đưa ra quyết định kinh tế và những quyết định này ảnh hưởng như thế nào đến hệ thống kinh tế lớn hơn. Nó tập trung vào các ngành và thị trường cụ thể, thay vì trên thị trường nói chung.
Trong khi đó, kinh tế học vĩ mô nghiên cứu toàn bộ nền kinh tế, tập trung vào các quyết định và vấn đề quy mô lớn, bao gồm cả thất nghiệp và tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Kinh tế vĩ mô có thể được sử dụng trên phạm vi đất nước cho tới quy mô toàn cầu.
4. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Trên cơ sở nhận thức kinh tế thị trường là sản phẩm, là thành quả chung trong sự phát triển của xã hội loài người, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không khắc phục được những khuyết tật của nó và người lao động vẫn chưa được hưởng những thành quả xứng đáng với sự đóng góp của họ, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Dù rằng trong xã hội còn có những ý kiến băn khoăn hoặc chưa thật sự đồng tình, thậm chí còn có người lợi dụng cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế thế giới hiện nay có nhiều loại mô hình kinh tế thị trường, như kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị trường xã hội, kinh tế thị trường hỗn hợp. Mỗi loại mô hình trong số ấy đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm vận hành và phát triển của các mô hình này trên thế giới, xuất phát từ đòi hỏi và thực tiễn phát triển của đất nước đang đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Và để đi đến sự nhận thức tương đối thống nhất về con đường phát triển đất nước bằng và qua kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần một quá trình nghiên cứu, thảo luận khoa học và đúc kết từ thực tiễn một cách nghiêm túc và sâu sắc.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương và nhất quán vận hành nền kinh tế thị trường chủ yếu bằng cơ chế thị trường và thông qua cơ chế thị trường nhưng coi trọng sự quản lý và sự điều tiết của Nhà nước, thực hiện phân phối công bằng, nhưng không cào bằng thành quả thu được cho mọi thành viên để không ai, kể cả những người yếu thế, bị bỏ lại phía sau. Đó chính là định hướng cực kỳ quan trọng cho toàn bộ quá trình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, sự kết hợp các mặt này hoàn toàn không phải là sự lắp ghép một cách tùy tiện, chủ quan, duy ý chí như một số người ngộ nhận hoặc cố tình quy kết. Đây là sự lựa chọn dựa trên cơ sở đúc kết những kinh nghiệm quý báu đã được thực tiễn lịch sử xác nhận; nắm bắt xu thế khách quan của thời đại, nhằm tiếp thu những gì đã được coi là tốt nhất của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa; tiếp thu một cách chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại; phát huy vai trò tích cực và các động lực của kinh tế thị trường trong việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao động, áp dụng nhanh nhất các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới, đồng thời cũng để từng bước hạn chế và dần dần khắc phục những khiếm khuyết, những bất công mà nền kinh tế ấy đã không thể làm được từ khi nó ra đời cho đến nay.
Nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta nói riêng, có khả năng kích thích tính độc lập, sự năng động, tính hiệu quả, sự tự do sáng tạo, năng lực phát minh, sáng chế và sự áp dụng nhanh chóng các công nghệ mới nhất của con người vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Sở dĩ kinh tế thị trường có thể làm được như vậy là vì trong nền kinh tế này sự cạnh tranh để tồn tại và phát triển phụ thuộc rất nhiều vào những khả năng ấy. Tất cả những khả năng ấy sẽ không phát huy tác dụng nếu thiếu sự tự do được luật pháp bảo vệ và xã hội khuyến khích.
Trong nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói riêng, khát vọng làm giàu của mỗi người là rất chính đáng nhưng muốn làm giàu bền vững thì không được trái đạo lý, không được trái pháp luật. Mỗi người làm giàu đều phải có trách nhiệm với bản thân mình, với cộng đồng xã hội và với đất nước. Đó là đòi hỏi không chỉ về phương diện đạo đức, không chỉ là trách nhiệm đạo đức mà còn là trách nhiệm xã hội, là làm giàu có văn hóa. Điều này càng đặc biệt quan trọng khi chúng ta hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới. Do vậy, vai trò động lực của con người có văn hóa trong nền kinh tế chính là chìa khóa mở ra cơ hội giành thắng lợi trong cạnh tranh công bằng, lành mạnh, qua đó thúc đẩy sản xuất phát triển.
Kết luận: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa do con người đóng vai trò động lực không chỉ vì mục tiêu kinh tế mà quan trọng hơn còn vì các mục tiêu xã hội, vì sự phát triển toàn diện các mặt của con người, vì cuộc sống hạnh phúc của con người.