Đã lập di chúc, có được chia di sản thừa kế theo pháp luật không? Trường hợp hưởng thừa kế theo pháp luật không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, những tài sản bao gồm tài sản riêng và cả những phần tài sản trong khối tài sản chung với người người khác của cá nhân khi chết đi sẽ trở thành di sản thừa kế. Những phần di sản này có thể được chuyển giao cho người khác dựa trên cơ sở di chúc mà người có tài sản để lại hoặc được chia theo pháp luật. Vậy, nếu trong trường hợp người để lại di sản đã có di chúc thể hiện nguyện vọng định đoạt tài sản của mình sau khi chết thì di sản thừa kế có được chia theo pháp luật hay không?
Mục lục bài viết
1. Quy định của pháp luật về thừa kế
Theo quy định, cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Nếu người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc. Đồng thời, mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Thứ nhất, thời điểm, địa điểm mở thừa kế được xác định tại Điều 611 Bộ luật dân sự năm 2015 như sau:
– Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp
– Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ di sản hoặc nơi có phần lớn di sản.
Thứ hai, để được hưởng di sản thừa kế, người thừa kế phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Lưu ý:
Những người thừa kế sẽ có các quyền, nghĩa vụ với tài sản do người chết để lại tính từ thời điểm mở thừa kế.
Thứ ba, thời hiệu thừa kế được xác định theo quy định tại Điều 623
– Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu hiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp có quy định khác. Trong trường hợp không có đối tượng trên thì di sản sẽ thuộc về Nhà nước.
– Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
– Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
2. Thừa kế theo di chúc
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết và được lập bởi người thành niên minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép. Trong trường hợp nếu người lập di chúc là người đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi thì phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
Thứ nhất, người lập di chúc có các quyền được pháp luật ghi nhận tại Điều 626 Bộ luật dân sự năm 2015 như sau:
– Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.
– Phân định phần di sản cho từng người thừa kế.
– Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.
– Giao nghĩa vụ cho người thừa kế.
– Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
Thứ hai, về hình thức của di chúc:
Theo quy định tại Điều 627 Bộ luật dân sự năm 2015, di chúc có thể được thể hiện bằng di chúc miệng trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản hoặc lập bằng văn bản dưới các dạng như:
– Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng.
– Di chúc bằng văn bản có người làm chứng.
– Di chúc bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực.
Thứ ba, hiệu lực của di chúc được xác định theo quy định tại Điều 643 Bộ luật dân sự năm 2015, cụ thể:
– Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế.
– Di chúc không có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong trường hợp người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc. Nếu người thừa kế là cơ quan, tổ chức được chỉ định không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực.
– Di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.
– Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực.
– Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực.
3. Thừa kế theo pháp luật
Thứ nhất, thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định, hình thức này chỉ được áp dụng trong các trường hợp quy định cụ thể tại Điều 650 Bộ luật dân sự năm 2015 bao gồm:
– Trường hợp không có di chúc hay di chúc không hợp pháp.
– Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
– Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Lưu ý:
Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
– Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
– Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;
– Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Thứ hai, về nguyên tắc, những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau và người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Theo đó, những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự tại Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2015 như sau:
– Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
– Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
– Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Lưu ý:
Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.
4. Những trường hợp phân chia di sản thừa kế theo pháp luật ngay cả khi có di chúc
Trường hợp thứ nhất: Không có di chúc hoặc di chúc không hợp pháp
Theo quy định tại Điều 630 Bộ luật dân sự năm 2015, di chúc được coi là hợp pháp nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
– Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép và nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
– Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
– Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
– Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.
Như vậy, đối với trường hợp cá nhân có di sản thừa kế để lại mà không có di chúc, hoặc di chúc không đảm bảo các điều kiện quy định thì di sản này sẽ được chia theo của pháp luật.
Trường hợp thứ hai: Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản
Theo quy định tại Điều 613 Bộ luật dân sự năm 2015, người thừa kế chỉ được hưởng di sản nếu đảm bảo các điều kiện sau đây:
– Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.
– Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Với những trường hợp này, mặc dù có di chúc để lại thì việc phân chia di sản cũng sẽ được áp dụng thừa kế theo pháp luật.
Trường hợp thứ ba: Người hưởng di chúc không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản
– Theo quy định tại Điều 620 Bộ luật dân sự năm 2015, người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. Do đó, nếu có di chúc để lại di sản thừa kế nhưng người có quyền thừa kế từ chối nhận thì phần di sản đó cũng sẽ được chia theo pháp luật.
– Trong trường hợp người có tài sản lập di chúc để lại di sản cho người khác mà người đó nằm trong trường hợp pháp luật quy định không được quyền hưởng di sản, người lập di chúc cũng hoàn toàn không biết về hành vi của người đó khi lập di chúc thì phần di sản đó cũng sẽ được chia theo pháp luật. Hành vi làm cơ sở để xác định cá nhân không được quyền hưởng di sản được quy định cụ thể tại Điều 621 Bộ luật dân sự năm 2015 như sau:
– Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
– Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
– Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
– Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.