Những người không có tên trong di chúc, vẫn được hưởng thừa kế? Đối tượng nào vẫn được hưởng thừa kế mà không phụ thuộc vào nội dung của di chúc?
Để bảo vệ quyền của những người được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc nói riêng và quyền của những người thừa kế khác trong việc hưởng di sản thừa kế của cá nhân nói chung, quy định về thừa kế đã có những chế tài áp dụng đối với những trường hợp tuy không có tên trong di chúc nhưng vẫn được nhận di sản thừa kế. Bài viết dưới đây của Luật Dương gia sẽ giúp cho bạn đọc giải đáp được những vướng mắc về vấn đề này.
Mục lục bài viết
1. Những trường hợp thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
Để bảo vệ quyền lợi của người có quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân hợp pháp với người để lại di sản, tại Điều 669 Bộ luật dân sự 2015 quy định những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc như sau:
“Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642
Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
Con đã thành niên mà không có khả năng lao động”.
Cha của người để lại di sản;
Mẹ của người để lại di sản;
Vợ của người để lại di sản;
Chồng của người để lại di sản;
Tuy nhiên, nếu họ thuộc trường hợp không có quyền hưởng di sản như là người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó… hoặc họ từ chối nhận di sản thì không thuộc trường hợp hưởng thừa kế.
Khoản 1, Điều 643 Bộ luật Dân sự 2015 quy định những người sau đây không được quyền hưởng di sản: Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
2. Mức hưởng của người hưởng thừa kế không có trong di chúc
Nếu người không có tên trong di chúc nhưng thuộc các trường hợp kể trên thì mỗi người được hưởng phần di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật.
Mức hưởng này được áp dụng cả với người được chia di sản theo di chúc nhưng mức hưởng trong di chúc nhỏ hơn 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật.
Như vậy, việc xác định 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, để bảo vệ quyền thừa kế của các con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng và con thành niên của người để lại di sản theo di chúc mà không có khả năng lao động trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, thì mỗi người trong số họ vẫn được hưởng phần tối thiểu bằng 2/3 suất thừa kế chia theo pháp luật. Việc xác định 2/3 của suất thừa kế chia theo pháp luật thật sự cần thiết, quan trọng trong viêc áp dụng pháp luật bảo vệ quyền thừa kế của người được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc theo quy định tại Điều 644
Quy định này nằm bảo vệ quyền lợi của những người có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân thân thiết, gần gũi nhất với người để lại di sản.
Lấy tổng di sản gốc là phần di sản còn lại để chia thừa kế sau khi đã thanh toán toàn bộ nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại theo thứ tự ưu tiên thanh toán được quy định tại Điều 658 Bộ luật dân sự năm 2015 gồm: Mai táng phí cho người đó; các khoản cấp dưỡng còn thiếu; các khoản bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản của người khác; các khoản nợ của nhà nước, của các chủ thể khác; chi phí quản lý, bảo quản di sản… Phần di sản còn lại được hiểu là di sản để chia thừa kế và là phần “di sản gốc” đem chia cho những “người thừa kế gốc” tại hàng thừa kế thứ nhất có quyền hưởng, được bao nhiêu nhân với hai phần ba của suất đó và người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc được hưởng phần đã được xác định theo cách tính này.
Những người thừa kế gốc tại hàng thừa kế thứ nhất được hiểu là người thừa kế có tên trong hàng đó và có quyền hưởng di sản thừa kế theo pháp luật. Người thừa kế gốc tại hàng thừa kế thứ nhất là những người thừa kế có quyền hưởng di sản. Nếu người có tên trong hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại Điều 651 Bộ Luật dân sự năm 2015, nhưng đã từ chối quyền hưởng di sản hoặc không có quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 621 Bộ luật dân sự năm 2015, thì bị loại khỏi hàng thừa kế.
3. Cách xác định 2/3 tài sản thừa kế đối với những người không có tên trong di chúc nhưng vẫn được hưởng thừa kế
Căn cứ Điều 644 Bộ luật dân sự quy định về mức hưởng 2/3 mức thừa kế như sau:
Điều 644. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
Để giúp người đọc hiểu hơn về suất thừa kế thì chúng tôi đưa ra ví dụ như sau:
Ông A và bà B là vợ chồng, có hai người con chung là C và D. Anh C bị kết án về hành vi ngược đãi ông A. Ông A qua đời có để lại di chúc và truất quyền thừa kế của bà B và cho cô Q là người hàng xóm hưởng toàn bộ di sản, di sản của ông A có 120.000.000 đồng. Theo quy định tại Điều 644 BLDS năm 2015, bà B là vợ của ông A tuy bị ông A truất quyền hưởng di sản nhưng bà B vẫn được hưởng: B = 120.000.000 đồng: 2 x 2/3 = 40.000.000 đồng. Theo cách tính trên cho thấy, hàng thừa kế thứ nhất của ông A chỉ có 02 người là bà B và anh D, còn anh C đã bị tước quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 Bộ luật dân sự năm 2015. Bà B và anh D là người thừa kế gốc tại hàng thừa kế thứ nhất của ông A có quyền hưởng di sản. Bà B được hưởng hai phần ba một suất thừa kế chia theo pháp luật theo cách tính trên.
Bởi vì, khi tính hai phần ba của một suất thừa kế chia theo pháp luật, phải đặt giả thiết nếu không có di chúc thì toàn bộ di sản của ông A sẽ được đem chia theo pháp luật, theo đó, suất thừa kế chia theo pháp luật sẽ được xác định. Nếu hiểu di sản gốc là phần di sản còn lại sau khi đã xác định phần được hưởng của những người thừa kế theo di chúc, phần di tặng, phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì không đúng. Ví dụ: Vợ chồng ông A và bà B có hai người con chung là C và D. Ông A chết có để lại di chúc truất quyền thừa kế của bà B và cho C hưởng một phần hai di sản, cho D hưởng một phần hai di sản. Di sản của ông A có 120.000.000 đồng. Nếu hiểu di sản gốc là phần di sản còn lại sau khi đã chia cho những người hưởng di sản theo di chúc và phần di sản dùng vào việc thờ cúng đã giao cho người quản lý thì khi đó, phần di sản mà người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc sẽ không thể xác định được vì di sản không còn để chia.
TƯ VẤN MỘT TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ:
Tóm tắt câu hỏi:
Ông nội tôi có 3 người con, trong di chúc phân chia nhà đất của ông nội để lại thì chú tôi không có tên, nhưng chú lại là người bị tật từ nhỏ. Tôi có hỏi vài nơi có người nói ông chú vẫn được chia một phần. Xin Luật sư Luật Dương gia cho biết cụ thể việc này?
Luật sư tư vấn:
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân để chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Pháp luật thừa kế ghi nhận người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế, phân định phần di sản cho từng người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế… Ý chí của người để lại di sản trong di chúc được tôn trọng nếu nó hội đủ các điều kiện để một bản di chúc là có hiệu lực.
Tuy nhiên, pháp luật cũng có sự can thiệp khác với ý chí của người lập di chúc trong một số trường hợp nhất định.
Tại Điều 644 của Bộ luật Dân sự 2015 quy định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Theo điều luật này, những người là con chưa thành niên hoặc con thành niên không có khả năng lao động của người lập di chúc; cha, mẹ, vợ hoặc chồng của người lập di chúc nếu không được người lập di chúc cho hưởng di sản, hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật thì họ vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật. Việc hưởng di sản của những người này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định của luật.
Cụ thể trường hợp của gia đình bạn, có 3 người trong hàng thừa kế thứ nhất (3 người con của ông nội bạn), giả sử như không có di chúc thì di sản được chia 3 phần, mỗi người một phần ba (một suất). Ở đây di chúc không để lại tài sản cho người chú bị khuyết tật không có khả năng lao động, nhưng theo quy định của luật thì ông này vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba của một suất đó.