Việc xóa án tích đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện cho người từng phạm tội tái hòa nhập cộng đồng. Một trong những vấn đề được nhiều người quan tâm là liệu những người đã được xóa án tích có đủ điều kiện để đảm nhận các vị trí như đại diện theo pháp luật hay không. Hãy cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây.
Mục lục bài viết
1. Một người đã được xóa án tích có được làm đại diện theo pháp luật của công ty không?
Theo quy định tại Điều 21 Nghị định 145/2020/NĐ-CP, các điều kiện cấp giấy phép cho hoạt động cho thuê lại lao động được nêu rõ và cụ thể.
-
Trước hết, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thực hiện hoạt động cho thuê lại lao động phải đáp ứng một số tiêu chí nhất định. Cụ thể, người này cần phải là người quản lý doanh nghiệp theo quy định của
Luật Doanh nghiệp , đảm bảo có đủ thẩm quyền và năng lực trong việc quản lý và điều hành hoạt động của doanh nghiệp. -
Điều kiện tiếp theo là người đại diện phải không có án tích. Tuy nhiên, điều này cũng có nghĩa là nếu người đại diện từng bị kết án nhưng đã hoàn thành hình phạt và đã được xóa án tích, thì họ vẫn đủ điều kiện để trở thành người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp cho thuê lao động. Điều này cho thấy sự linh hoạt của pháp luật trong việc tạo cơ hội cho những người đã từng có tiền án tiền sử có thể tái hòa nhập vào xã hội và khôi phục quyền lợi hợp pháp của mình.
-
Ngoài ra, một yêu cầu quan trọng khác là người đại diện theo pháp luật cần có ít nhất ba năm (36 tháng) kinh nghiệm làm việc trực tiếp trong lĩnh vực chuyên môn hoặc quản lý liên quan đến cho thuê lại lao động hoặc cung ứng lao động, trong khoảng thời gian năm năm liền kề trước khi nộp đơn xin cấp giấy phép.
-
Cuối cùng, doanh nghiệp cũng cần thực hiện việc ký quỹ với số tiền là 2.000.000.000 đồng (hai tỷ đồng), nhằm đảm bảo trách nhiệm tài chính của doanh nghiệp trong quá trình hoạt động cho thuê lại lao động.
Như vậy, việc người đã từng bị kết án nhưng đã chấp hành xong hình phạt và được xóa án tích vẫn có thể làm đại diện theo pháp luật cho doanh nghiệp, miễn là họ đáp ứng đầy đủ các điều kiện khác được quy định. Điều này không chỉ thể hiện tính nhân văn của pháp luật mà còn khuyến khích sự phát triển của cá nhân.
2. Cách tính thời hạn để xóa án tích được pháp luật quy định như thế nào?
Theo quy định tại Điều 73 Văn bản hợp nhất 01/VBHN-VPQH năm 2017, hợp nhất Bộ luật Hình sự việc xác định và tính toán thời hạn để xóa án tích là một vấn đề quan trọng, giúp đảm bảo quyền lợi cho những người đã từng vi phạm pháp luật và đã chấp hành hình phạt. Điều 73 này quy định một cách cụ thể về cách thức tính thời gian để người bị kết án có thể được xóa án tích, qua đó tạo điều kiện cho việc tái hòa nhập cộng đồng.
-
Trước hết, thời hạn để xóa án tích được quy định tại Điều 70 và Điều 71 của Bộ luật Hình sự căn cứ vào hình phạt chính đã được tuyên đối với người bị kết án. Thời gian cần thiết để xóa án tích không chỉ phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tội phạm mà còn phụ thuộc vào hình phạt cụ thể mà người đó đã phải chấp hành.
-
Trong trường hợp người bị kết án chưa được xóa án tích và lại thực hiện hành vi phạm tội mới thì sẽ ảnh hưởng đến thời hạn xóa án tích cũ. Cụ thể, nếu người này bị Tòa án kết án bằng một bản án có hiệu lực pháp luật, thì thời hạn để xóa án tích cũ sẽ được tính lại kể từ ngày mà họ hoàn thành hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo của bản án mới, hoặc từ ngày mà bản án mới hết thời hiệu thi hành.
-
Đối với những người phạm nhiều tội mà trong số các tội danh họ bị kết án có tội thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích và có tội thuộc trường hợp xóa án tích theo quyết định của Tòa án, thì việc xóa án tích sẽ được quyết định dựa trên thời hạn quy định tại Điều 71 của Bộ luật Hình sự. Tòa án sẽ là cơ quan quyết định cuối cùng, xem xét từng trường hợp cụ thể để đưa ra quyết định phù hợp nhất.
-
Cuối cùng, những người được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại cũng sẽ được coi như đã hoàn thành hình phạt, có nghĩa là, nếu một cá nhân được miễn thực hiện phần hình phạt còn lại, họ sẽ không phải tiếp tục chấp hành hình phạt đó và như vậy, họ sẽ có cơ hội được xóa án tích mà không bị ràng buộc bởi thời gian chấp hành hình phạt.
Như vậy, Điều 73 Bộ luật Hình sự không chỉ quy định chi tiết về thời gian xóa án tích mà còn phản ánh tính nhân văn của pháp luật, giúp những người có tiền án tiền sự có cơ hội làm lại cuộc đời, đồng thời cũng thể hiện sự nghiêm minh trong việc thực hiện và áp dụng pháp luật đối với các hành vi vi phạm.
3. Khi nào thì đương nhiên được xóa án tích?
Theo quy định tại Điều 70
-
Đầu tiên, việc đương nhiên được xóa án tích sẽ chỉ được áp dụng cho những người bị kết án không liên quan đến các tội phạm quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật Hình sự. Theo đó, những tội phạm nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng sẽ không nằm trong phạm vi điều chỉnh của quy định này, nhằm bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật đối với những hành vi có mức độ nguy hiểm cao cho xã hội. Để được xóa án tích, những người này cần phải đã chấp hành xong hình phạt chính, hoàn thành thời gian thử thách án treo, hoặc hết thời hiệu thi hành bản án. Ngoài ra, họ còn phải đáp ứng các điều kiện cụ thể được quy định tại khoản 2 và khoản 3 của Điều 70 Bộ luật Hình sự.
-
Cụ thể, trong trường hợp người bị kết án đã hoàn thành hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, họ sẽ đương nhiên được xóa án tích nếu đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, thực hiện đầy đủ các quyết định khác của bản án và không tái phạm bằng việc thực hiện hành vi phạm tội mới trong những thời hạn nhất định. Thời hạn này được quy định cụ thể theo từng loại hình phạt như sau: Nếu bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, hoặc bị phạt tù nhưng được hưởng án treo, thời gian cần thiết để được xóa án tích là 01 năm. Trong trường hợp bị phạt tù từ 1 đến 5 năm, thời hạn này là 02 năm; nếu bị phạt tù từ trên 5 năm đến 15 năm, thời gian là 03 năm; và trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án, thời hạn là 05 năm.
-
Cần lưu ý, trong trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung, chẳng hạn như quản chế, cấm cư trú, hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ và thời hạn chấp hành các hình phạt này kéo dài hơn thời gian quy định tại các điểm a, b và c, thì thời gian để họ được đương nhiên xóa án tích sẽ hết vào thời điểm mà họ hoàn thành xong hình phạt bổ sung đó.
-
Cuối cùng, Điều 70 Bộ luật Hình sự cũng quy định rõ về trách nhiệm của cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trong việc cập nhật thông tin về tình hình án tích của những người bị kết án. Khi có yêu cầu, cơ quan này sẽ cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích cho những cá nhân đã đáp ứng đủ điều kiện theo quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 của Điều 70. Điều này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho những người đã hoàn thành nghĩa vụ của mình mà còn thúc đẩy ý thức tuân thủ pháp luật và sự tái hòa nhập của họ vào cộng đồng.
Như vậy, quy định về đương nhiên xóa án tích tại Điều 70 của Bộ luật Hình sự không chỉ giúp những người phạm tội có cơ hội làm lại cuộc đời mà còn góp phần xây dựng một xã hội công bằng, văn minh hơn, nơi mà mọi cá nhân đều có cơ hội được phục hồi danh dự và quyền lợi của mình sau khi đã chấp hành đầy đủ các hình phạt.
THAM KHẢO THÊM: