Bài thơ Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất thuộc thể loại thơ tự do của tác giả Phạm Ngọc Cảnh, nằm ở trong tập Đêm Quảng Trị. Hoàn cảnh ra đời của bài thơ vô cùng đặc biệt đó chính là trong mạch văn hào sảng khí thế của người lính ra trận. Hãy tóm tắt Lí ngựa ô ở hai vùng đất ngắn gọn Ngữ văn lớp 10.
Mục lục bài viết
1. Tóm tắt Lí ngựa ô ở hai vùng đất ngắn gọn Ngữ văn lớp 10:
Bài thơ Lý Ngựa ô ở hai vùng đất thuộc thể loại thơ tự do của tác giả Phạm Ngọc Cảnh, nằm ở trong tập Đêm Quảng Trị. Hoàn cảnh ra đời của bài thơ vô cùng đặc biệt đó chính là trong mạch văn hào sảng khí thế của người lính ra trận. Bài Lý ngựa ô ở hai vùng đất đã kể lại cuộc chiến tranh đã qua của nước ta, xen lẫn vào đó chính là tình yêu đôi lứa được thể hiện thông qua làn điệu dân gian quen thuộc. Điều đầu tiên, những làn điệu Lý ngựa ô được hát ở bên anh trong phần đầu của bài thơ. Câu hát như là tiếp thêm sức mạnh cho anh khi hành quân đánh giặc như em vẫn luôn đợi anh về và cũng đại diện cho cả quê hương đang cần anh bảo vệ. Ở đoạn tiếp theo, tác giả đã sử dụng nghệ thuật điệp ngữ để làm tăng thêm tính tự hào của nhân vật anh về làn điệu Lý ngựa ô đã được truyền lại từ thời cha ông. Đến với vùng đất thứ hai cũng yêu làn điệu Lý ngựa ô không kém đó chính là bên nhân vật em. Có thể thấy, nếu như quê anh gắn với truyền thuyết Thánh Gióng ở miền Bắc Bộ thì ở quê em lại ở miền Trung, nơi móng ngựa “gõ mê say” để băng qua phá “rộng duềnh doàng lên dợn sóng” hay là qua cả “truông rậm”. Đây là hai vùng địa hình đặc trưng của dải đất miền Trung nước ta, phá chính là vùng nước mặn có một dải đất và cát ngăn với biển, được nối thông ra ngoài biển bằng một dòng nước hẹp. Còn truông chính là chỉ một vùng đất hoang, có cây cối rậm rạp. Rồi làn điệu lý ngựa ô ở hai vùng đất bên anh và bên em được gặp gỡ và được giao lưu với nhau. Tuy cùng làn điệu lý ngựa ô, nhưng câu hát ở mỗi vùng lại được thêm vào đó các đặc trưng riêng của quê hương mình. Ở bên anh câu hát lý ngựa ô gắn với truyền thuyết về Thánh Gióng. Ở nơi em thì lại gắn với truông dài phá rộng của miền Trung. Hay miền Nam, lý ngựa ô lại có âm điệu “như giục như mời”, các câu hát gắn với hình ảnh ngựa bay qua vựa lúa bát ngát, ngựa chạy ở nơi sông Cửu Long “sông xòe chín cửa” để được vươn ra biển lớn, cất tiếng hí vang “chào xa khơi”.
2. Tóm tắt Lí ngựa ô ở hai vùng đất hay nhất:
“Lý ngựa ô ở hai vùng đất” là thi phẩm thường hay được nhắc tới của Phạm Ngọc Cảnh. Bài thơ cũng là một cơ duyên gắn bó ông với người phụ nữ có cái tên đẹp là Giáng Hương. Bài thơ “Lý ngựa ô ở hai vùng đất” đã ra đời trong một mạch văn hào sảng khí thế của những người lính trận. Bài thơ cũng đã gieo vào lòng các độc giả cùng thế hệ những niềm vui và niềm tin chiến thắng. Làng anh nằm ở ven sông, “quen hát Lí ngựa ô rồi”, hát vào tháng tư khi có Hội Gióng. Câu hát Lí ngựa ô ở “làng anh” hát theo đường đánh giặc khiến ai nghe cũng phải ngỡ mình đang đi trong mây, chẳng ai tin mình đang giong ngựa sắt. Có thể thấy thời điểm “làng anh” là đang đi lính, ra chiến trận, câu hát như một khúc ca vang lên khi họ đi hành quân. Bên em thì lại “móng ngựa gõ mê say’, “qua phá rộng duềnh doàng lên đợt sóng”. Ở bên em, câu hát Lí ngựa ô như là một lời mời gọi, mang những cảm xúc mộc mạc nhất của làng quê, sông nước miền Trung. Bài thơ đã cho thấy được nét độc đáo của điệu lý ngựa ô khi nó được diễn xướng ở hai địa điểm hoàn toàn khác nhau là “làng anh” và “làng em”. Qua điệu hò ngựa ô, tác giả đã lồng ghép thể hiện được tình cảm của chàng trai và cô gái với những nhớ nhung, khao khát yêu đương một cách thật kín đáo, tế nhị. Qua đó ta cũng thấy rõ, những giai điệu, bài hát là nơi gửi gắm tâm tư, tình cảm, ước mơ và khát vọng của người dân lúc xưa. Thông qua bài thơ, ta có thể nhân thấy rằng những câu hò, câu hát giao duyên hay là những làn điệu dân ca nhìn chung dường như đều thể hiện được vẻ đẹp và khát vọng của nhân dân. Họ đã gửi gắm vào đó những ước vọng, khát khao hòa bình, tình yêu đôi lứa và cả tâm tư tình cảm, tình yêu quê hương, đất nước.
3. Tóm tắt Lí ngựa ô ở hai vùng đất súc tích nhất:
Bài thơ mang tên “Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất” của Phạm Ngọc Cảnh, thuộc tập thơ “Đêm Quảng Trị”. Bài thơ ra đời ở trong bối cảnh hào hùng của người lính ra trận, kể về cuộc chiến tranh đã qua và tình yêu lứa đôi, kết hợp với làn điệu dân gian quen thuộc.
Mở đầu, những làn điệu “Lý Ngựa Ô” xuất hiện ở trong tâm trí nhân vật anh “Anh lớn lên vó ngựa cuốn về đâu….Cả một vùng sông ai chẳng hát sao lại không nghe câu lý ngựa ô này”. Hình ảnh những con ngựa đã gắn bó với nhân vật từ khi mà còn nhỏ. Mặc dù chiến tranh rất tàn khốc, tình yêu giữa người vẫn mãi vững bền, và những câu hát dân gian như “Lý Ngựa Ô” là nguồn động viên tinh thần. Niềm tự hào đó đã giúp cho nhân vật bày tỏ tình cảm với người thương, nhắc đến làn điệu “Lý Ngựa Ô” và tưởng tượng cùng nhau hát vang.
Không chỉ riêng anh, cả làng anh đều yêu thích làn điệu này. Làng anh, nằm bên sông, gắn liền với câu chuyện truyền thuyết về Thánh Gióng. Hàng năm vào tháng Tư, làng anh tổ chức hội Gióng, thu hút rất nhiều những người dân từ khắp nơi đến tham gia và tri ân Thánh Gióng. Khi hội Gióng diễn ra, làn điệu “Lý Ngựa Ô” lại cất vang lên, như một khúc hành quân của Thánh Gióng và ngựa sắt.
Chuyển sang vùng đất thứ hai, nơi mà có nhân vật em: “Thế mà bên em, tiếng móng ngựa gõ mê say qua phá rộng, dợn sóng và qua truông rậm. Đến giờ, anh vẫn còn đang nhớ đến những cột gỗ lim già, băng qua miền Trung sông suối dầy tơ nhện và núi non hùng vĩ. Những câu hát “Lý Ngựa Ô” vẫn vang lên qua những chặng đường gập ghềnh…”.
Quê em nằm ở miền Trung, nơi tiếng móng ngựa gõ vang lên để vượt qua phá rộng, dợn sóng và truông rậm rạp. Đây chính là những đặc trưng địa hình của miền Trung, nơi mà em và anh đã gặp nhau trong bối cảnh chiến tranh. Các câu hát “Lý Ngựa Ô” quen thuộc lại vang lên, tiếp thêm sức mạnh cho anh.
Cuối cùng, làn điệu “Lý Ngựa Ô” từ hai vùng đất đã giao hòa với nhau. Những năm gần đây, ở tại làng anh ven sông, khi tháng tư đến hội Gióng, mọi người đã quen với điệu lý ngựa ô. Lời hát ca ngợi về miền Trung qua truông dài và đánh trống, trong khi miền Nam thì miêu tả ngựa bay qua biển lúa và chèo xa khơi. Em có biết rằng quê anh ngoài đó với câu hát bắc cầu, đưa người về một thời quan họ, những câu hát tạo nên mối duyên vợ chồng và lý ngựa ô hát theo đường đánh giặc?
Lý Ngựa Ô mang nét đặc trưng khác nhau ở từng vùng. Bắc Bộ liên kết với truyền thuyết Thánh Gióng; Trung Bộ lại gắn với truông dài và phá rộng; Nam Bộ thể hiện về âm điệu như mời gọi, miêu tả ngựa bay qua vựa lúa và chạy ở sông Cửu Long, vươn ra biển lớn.
Trong sự hòa quyện của các làn điệu Lý Ngựa Ô, chàng trai miền Bắc tỏ tình với người thương qua các câu hát quan họ Bắc Ninh. Anh mong tình yêu của họ được vững bền như là câu hát quan họ, với người yêu là hậu phương đáng tin cậy.
Bài thơ “Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất” đưa ta vào trong thế giới của làn điệu dân ca Lý Ngựa Ô, không kém phần nổi tiếng so với quan họ. Bài thơ đã thể hiện vẻ đẹp của Lý Ngựa Ô từ Bắc vào Nam, mỗi nơi mang một đặc trưng riêng. Những nhân vật thể hiện tình cảm với nhau và tình yêu quê hương, thể hiện về truyền thống yêu nước đã in sâu vào văn hóa Việt Nam qua bao thế hệ.
THAM KHẢO THÊM: